Bản án về tội buôn bán hàng cấm (pháo hoa nổ với tổng trọng lượng 16,2kg) số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Lâm Châu T, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1985 tại tỉnh Đ; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Châu T1 và bà Trần Thị A; bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/01/2022 đến 29/01/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lâm Châu T1, sinh năm 1954; nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa;

- Người làm chứng: Anh Trần Quang Đ, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp 5, xã S, huyện T, tỉnh Đ; vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Lâm Châu T làm nghề sửa chữa xe mô tô tại khu phố 2, thị trấn T; thông qua mạng xã hội facebook T quen biết đối tượng tên T2 ở tỉnh L (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), T2 giới thiệu có bán pháo hoa nổ với giá 600.000 đồng/01 hộp pháo loại 36 ống. T nảy sinh ý định mua pháo để gần Tết Nguyên đán bán lại kiếm lời. Ngày 18/01/2022, T đặt mua của T2 10 hộp pháo hoa nổ loại 36 ống với giá 600.000 đồng/01 hộp và 10 quả pháo hoa nổ loại pháo trứng giá 150.000 đồng/01 quả, sau đó T2 gửi xe khách (T khai không nhớ tên nhà xe và biển số xe) mang số pháo trên đến đoạn quốc lộ 1A phía trước nhà hàng G giao cho T, T nhận pháo và trả số tiền 7.500.000 đồng mua pháo cho người phụ xe. Sau đó, T mang 10 hộp pháo hoa nổ đến cất giấu ở căn nhà hoang ở bãi đá thuộc ấp 6, xã S, huyện T; còn 10 quả pháo trứng T mang về nhà cất giấu nhằm mục đích để bán kiếm lời.

Ngày 22/01/2022, khi ngồi uống nước với Lê Hữu H, Tâm nghe H nói Lưu Trí Q, sinh năm 1988, địa chỉ ở ấp 5, xã S, huyện T thường mua pháo hoa về đốt với giá 1.200.000đồng/01 hộp nên T nảy sinh ý định chở pháo đến bán cho Q. Khoảng 13 giờ ngày 25/01/2022, T điều khiển xe mô tô biển số 54N2- 5409 chạy đến khu vực cất giấu pháo ở khu vực bãi đá chở 10 hộp pháo đi tiêu thụ thì bị Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng (bút lục 37-49). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lâm Châu T tại khu phố 2, thị trấn T, huyện T và thu giữ: 10 quả pháo có hình bầu dục, kích thước 17cm x 10cm, bên ngoài có bọc giấy màu nâu (ký hiệu M2). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lâm Châu T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

2. Vật chứng của vụ án:

- 10 hộp (dàn) pháo hình hộp chữ nhật có kích thước 15cm x 15cm x 10cm, bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi hộp pháo có 36 ống pháo hình trụ tròn, đường kính 2,3cm, dài 10cm; 10 quả pháo có hình bầu dục, kích thước 17cm x 10cm, bên ngoài có bọc giấy màu nâu.

- 01 xe mô tô biển số 54N2- 5409 và 01 điện thoại di động hiệu iphone 8 plus có gắn sim số 0919.733.996 (bút lục 25-27).

3. Giám định: Tại bản kết luận giám định số 1004/C09B ngày 26/01/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Bộ Công an kết luận:

- Mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 12,4kg.

- Mẫu ký hiệu M2 gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 3,8kg (bút lục 34).

4. Truy tố:

Tại bản Cáo trạng số: 91/CT-VKS-TB ngày 22 tháng 4 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Lâm Châu T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lâm Châu T từ 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) đến 120.000.000 đồng (Một trăm hai mươi triệu đồng);

- Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy số pháo sau giám định được niêm phong trong 01 thùng giấy carton có hình dấu tròn của phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh và 01 sim số 0919.733.996;

+ Đề nghị tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 plus;

+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 54N2- 5409, kết quả xác minh do ông Lâm Châu T1 (là bố của T) làm chủ sở hữu, việc T tự ý sử dụng xe vào việc phạm tội ông T1 không biết, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại xe cho ông T1 là phù hợp (bút lục 61-68; 81);

+ Đối với người đàn ông tên T2 ở tỉnh L (chưa xác định được nhân thân, lai lịch), đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ, khi có cơ sở sẽ xử lý sau;

- Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Người làm chứng vắng mặt nhưng đã cung cấp đầy đủ lời khai tại Cơ quan điều tra; căn cứ khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về tội danh:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom mô tả. Qua đó, có đủ căn cứ để kết luận, Lâm Châu T đã có hành vi mua 10 hộp pháo hoa nổ loại 36 ống và 10 quả pháo hoa nổ loại pháo trứng, có tổng trọng lượng 16,2kg với tổng số tiền 7.500.000 đồng nhằm mục đích bán lại cho người có nhu cầu để kiếm lời vào dịp Tết nguyên đán; tuy nhiên, khi đang trên đường chở pháo đi tiêu thụ thì bị bắt giữ. Hành vi của Lâm Châu T đã phạm vào tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo về tội danh và điều luật là đúng, người đúng tội, và đúng pháp luật.

[3] Về trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn trong công tác quản lý kinh tế, hàng hóa, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý pháo của Nhà nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực, hành vi trách nhiệm hình sự, nhận thức biết rõ việc buôn bán pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đo cân ap dung hinh phat tuong xưng vơi tinh chât, mưc đọ hanh vi pham tọi cua b ị cáo gây ra nhằm mục đích răn đe , giáo giục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo giản đơn, chưa gây ra hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này đều chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương và có khả năng tự cải tạo; tại phiên tòa bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải; Vì vậy, không cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù; quyết định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và thu ngân sách Nhà nước;

[5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số pháo còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 thùng giấy carton có hình dấu tròn của phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh và 01 sim số 0919.733.996;

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 plus;

[6] Đối với người đàn ông tên T ở tỉnh L (không rõ nhân thân, lai lịch), đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ, khi có cơ sở sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với các nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35, của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Lâm Châu T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”;

- Xử phạt bị cáo Lâm Châu T 100.000.0000 đồng (Một trăm triệu đồng);

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy số pháo còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 thùng giấy carton có hình dấu tròn của phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh và 01 sim số 0919.733.996;

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 plus;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lâm Châu T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm (pháo hoa nổ với tổng trọng lượng 16,2kg) số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về