Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản số 40/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 40/2022/HSPT NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại Hội trường 2, trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 274/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn N do có kháng cáo của các bị cáo và của bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Các bị cáo kháng cáo:

- Bùi Quốc T; sinh năm 1999, tại Cà Mau;

Nơi cư trú: (ĐKHKTT) Ấp Tapasa II, xã Tân Phú, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Nghề nghiệp làm thuê; Trình độ học vấn 09/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch:Việt Nam; Chức vụ, đảng phái không; Con ông Bùi Văn B và bà Nguyễn Thị L; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam và có mặt tại phiên tòa.

- Bùi Minh H; sinh năm 2000, tại Đắk Nông;

Nơi cư trú: (ĐKHKTT) Khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp thợ cắt tóc; Trình độ học vấn 09/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch:Việt Nam; Chức vụ, đảng phái không; Con ông Bùi Văn T và bà Nguyễn Thị B (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam và có mặt tại phiên tòa.

- Nguyễn Văn T; sinh năm 2001, tại Kiên Giang;

Nơi cư trú: (ĐKHKTT) Ấp Vinh Bắc, xã Ngọc T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp làm thuê; Trình độ học vấn 00/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch:Việt Nam; Chức vụ, đảng phái không; Con ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị L; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam và có mặt tại phiên tòa.

- Nguyễn Tuấn N; sinh năm 2001, tại Kiên Giang;

Nơi cư trú: (ĐKHKTT) Ấp Năm Biển B, xã Nam Thái, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp thợ cơ khí; Trình độ học vấn 07/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch:Việt Nam; Chức vụ, đảng phái không; Con ông Nguyễn Thanh Đ và bà Lê Thị Mộng N; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam và có mặt tại phiên tòa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo: Luật sư Vũ Văn T - Văn phòng Luật sư Thiên Long, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.

Bị hại: Anh Lý Vũ Hữu Đ, sinh năm 2000. Trú tại: Ấp Sông Mây, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N là bạn bè quen biết nhau ngoài xã hội.

Vào năm 2019, anh Lý Vũ Hữu Đ – sinh năm 2000, trú tại phường Phú Bình, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế và chị Trần Thị Bé Hiếu – sinh năm 2001, trú tại xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có quan hệ tình cảm và sống chung phòng trọ tại ấp Sông Mây, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Đến tháng 10/2020 thì cả hai chia tay, sau đó chị Bé Hiếu chuyển đến ở trọ tại khu phố 8, phường Long Bình, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và có quan hệ tình cảm với Bùi Quốc T. Trong quá trình chung sống trước đó với anh Đức thì chị Bé Hiếu cho anh Đức mượn một số trang sức bằng vàng gồm lắc tay, dây chuyền, nhẫn vàng trị giá khoảng 10.000.000 đồng (Do chị Bé Hiếu tự quy đổi) và anh Đức đứng ra mượn giùm cho bà Lý Thị Sang Đông (Mẹ của anh Đức) 01 cái lắc vàng trị giá khoảng 2.500.000 đồng. Sau khi chia tay anh Đức thì chị Bé Hiếu đã nhiều lần đòi lại số vàng trên nhưng anh Đức và bà Đông không trả nên chị Hiếu có nói lại cho Thích biết.

Đến khoảng 16 giờ ngày 18/12/2020, trong lúc Thích ngồi nhậu cùng với Minh Hiếu, Nguyên, Tình và các đối tượng tên Phụng, Phú, Linh, Nam (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại quán lẩu dê “Đức Tài” ở khu phố 8, phường Long Bình, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì Thích kể cho mọi người nghe việc anh Đức nợ tiền, vàng của chị Bé Hiếu nhưng không trả và Thích rủ cả nhóm đi bắt giữ anh Đức để đòi nợ cho chị Bé Hiếu thì tất cả đồng ý. Sau đó, Thích điều khiển xe mô tô biển số 69E1 – 410.91 chở Nguyên dẫn đường đi đến tiệm Internet “Phong Lan” ở đường 767 thuộc ấp Sông Mây, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để tìm anh Đức còn Minh Hiếu điều khiển xe mô tô biển số 60B9 – 460.70 chở Phụng, Linh điều khiển xe mô tô (Không rõ biển số) chở Tình, Phú điều khiển xe mô tô (Không rõ biển số) chở Nam đi theo sau. Khi đến khu vực đường 767 thuộc ấp An Chu, xã B, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai thì Phụng nói Minh Hiếu dừng xe trước tiệm tạp hóa để Phụng vào mua 01 con dao thái lan.

Khi cả nhóm đến tiệm Internet “Phong Lan”, Thích, Minh Hiếu, Phụng và Phú đi vào trong tiệm tìm anh Đức còn Nguyên, Tình, Linh, Nam đứng phía ngoài trước cửa tiệm. Thích phát hiện thấy anh Đức đang ngồi chơi ở máy trong cùng nên cả nhóm đi lại đứng phía sau lưng anh Đức. Lúc này, Minh Hiếu dùng tay nhéo tai anh Đức, Phụng dùng tay kẹp cổ kéo anh Đức đứng dậy và Thích cầm tay anh Đức kéo ra phía ngoài trước cửa tiệm ép anh Đức ngồi lên xe mô tô biển số 60B9 – 460.70. Minh Hiếu điều khiển xe mô tô biển số 60B9 – 460.70 chở anh Đức ngồi giữa còn Phụng ngồi sau giữ, khống chế anh Đức không cho anh Đức nhảy khỏi xe. Sau đó, Thích điều khiển xe mô tô chở Nguyên dẫn đường cho cả nhóm đi từ tiệm Internet “Phong Lan” đến khu vực bãi đất trống thuộc ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, các bị cáo kéo anh Đức xuống xe và đứng vây xung quanh. Thích và Minh Hiếu hỏi anh Đức nợ chị Bé Hiếu bao nhiêu tiền, vàng và yêu cầu anh Đức phải trả nợ cho chị Bé Hiếu thì anh Đức nói không nhớ nên bị Minh Hiếu dùng tay tát vào mặt anh Đức 02 cái, Tình dùng tay phải tát vào mặt anh Đức 02 cái, Phụng dùng nón bảo hiểm và 01 khúc cây dài khoảng 70cm đánh nhiều cái vào người anh Đức, sau đó Phụng cầm 01 con dao thái lan đứng phía sau lưng anh Đức đe dọa. Minh Hiếu tiếp tục hỏi về số tiền, vàng anh Đức nợ chị Bé Hiếu thì anh Đức thừa nhận việc có mượn một số lắc tay, dây chuyền, nhẫn vàng của chị Bé Hiếu trị giá khoảng 10.000.000 đồng và anh Đức đứng ra mượn giùm cho bà Lý Thị Sang Đông 01 cái lắc vàng trị giá khoảng 2.500.000 đồng. Lúc này, Minh Hiếu tiếp tục yêu cầu anh Đức phải hẹn ngày trả nợ cho chị Bé Hiếu thì anh Đức hẹn đến ngày 25/12/2020 bà Đông sẽ trả cho chị Bé Hiếu 2.500.000 đồng là trị giá 01 cái lắc vàng, còn số tiền 10.000.000 đồng anh Đức hứa khi nào có tiền sẽ trả cho chị Bé Hiếu sau. Cùng lúc này Minh Hiếu và Tình dùng điện thoại di động quay lại diễn biến cảnh anh Đức thừa nhận nợ tiền của chị Bé Hiếu và việc anh Đức hứa sẽ trả nợ cho chị Bé Hiếu để làm bằng chứng. Sau khi anh Đức thừa nhận và hứa trả tiền cho chị Bé Hiếu thì Phụng ép anh Đức ngồi lên xe mô tô biển số 60B9 – 460.70 do Phụng điều khiển chở anh Đức ngồi giữa và Minh Hiếu ngồi sau giữ anh Đức rồi cả nhóm chở anh Đức đi về hướng Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trước khi lên xe Phụng đưa cho Minh Hiếu 01 con dao thái lan (Kích thước dài khoảng 15cm, cán dao màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại, mũi dao nhọn), trên đường đi Minh Hiếu dùng dao thái lan dí vào hông bên trái anh Đức đe dọa, khống chế không cho anh Đức nhảy xuống xe và yêu cầu anh Đức về nhà phải trả tiền cho chị Bé Hiếu. Khi đến cây xăng 09 thuộc ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai thì Phụng dừng xe cho anh Đức xuống rồi cả nhóm bỏ đi. Anh Đức đã đến Công an xã B, huyện Trảng Bom tố cáo hành vi của Thích và đồng bọn. Công an xã B, huyện Trảng Bom đã tiến hành xác minh làm việc với Bùi Quốc T và Bùi Minh H, đến ngày 19/12/2020 Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N đến Công an huyện Trảng Bom đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình (Bút lục số: 147-173,189-212,230-247,263-338).

- Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12 màu xanh đậm, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12 màu xanh nhạt, 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen, 01 xe mô tô biển số 69E1 – 410.91, 01 USB lưu trữ hình ảnh các bị cáo bắt giữ anh Đức tại tiệm Internet “Phong Lan” và cảnh đòi nợ tại bãi đất trống ở ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (Bút lục số: 04,06,07,09,10).

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N về các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản” để điều tra. Quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đối với việc anh Lý Vũ Hữu Đ bị nhóm người của Bùi Quốc T đánh, do chỉ bị thương tích nhẹ nên anh Đức không yêu cầu giám định thương tích và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường (Bút lục số: 315,316).

Đối với số trang sức bằng vàng gồm lắc tay, dây chuyền, nhẫn vàng chị Trần Thị Bé Hiếu cho anh Lý Vũ Hữu Đ mượn, do chị Bé Hiếu và anh Đức không nhớ cụ thể số lượng và trọng lượng vàng nên không có căn cứ để định giá tài sản.

- Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12 màu xanh đậm và 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh các bị cáo Bùi Minh H và Nguyễn Văn T sử dụng vào việc phạm tội đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô biển số 69E1 – 410.91 Bùi Quốc T sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản của bà Nguyễn Thị Lẹ (mẹ bị can Thích), việc Thích sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội bà Lẹ không biết. Đối với các điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen thu giữ của Nguyên và điện thoại di động hiệu Oppo A12 màu xanh nhạt thu giữ của Thích, do các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản trên cho bà Nguyễn Thị Lẹ và Bùi Quốc T, Nguyễn Tuấn N. (Bút lục số: 343-346,392-397).

Đối với 01 USB lưu trữ hình ảnh các bị cáo bắt giữ anh Đức tại tiệm Internet “Phong Lan” và cảnh đòi nợ tại bãi đất trống ở ấp Thái Hòa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với xe mô tô biển số 60B9 – 460.70 Nguyễn Tuấn N sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản của bà Lê Thị Hồng Nghi (mẹ bị cáo Nguyên), việc Nguyên sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội bà Nghi không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trảng Bom không thu giữ (Bút lục số:

347-358).

Đối với 02 xe mô tô (Không rõ biển số) các đối tượng Linh và Phú sử dụng làm phương tiện phạm tội, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom không thu giữ được.

Tại bản án số 116/2021/HSST ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 157; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 khoản 2, Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”.

- Xử phạt các bị cáo: Bùi Quốc T, Bùi Minh H và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo: 06 (sáu) tháng tù về tội“Bắt, giữ người trái pháp luật”, 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn N 06 (sáu) tháng tù về tội“Bắt, giữ người trái pháp luật”, 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo A12 màu xanh đậm và 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh.

Ngoài ra án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại.

Ngày 28/6/2021 các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Tuấn N có đơn kháng cáo; ngày 29/6/2021 bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo; ngày 01/7/2021 bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ có đơn kháng cáo. Nội dung tất cả các đơn kháng cáo đều có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho các bị cáo: Các bị cáo còn tuổi đời nhỏ, trình độ học vấn thấp nên dẫn đến không am hiểu pháp luật. Các bị cáo sống trong gia đình lao động nghèo là lao động chính trong gia đình. Khi phạm tội các bị cáo đã ra đầu thú, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết trên để xét là tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, cũng như kháng cáo của bị hại giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo có cơ hội cải tạo, hòa nhập cộng đồng.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, tại phiên tòa:

Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo phù hợp về nội dung, hình thức và trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Cấp sơ thẩm đã căn cứ vào mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, mà quyết định các mức hình phạt, đúng người đúng tội và phù hợp quy định của pháp luật Hình sự. Các bị cáo, bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo nhưng tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, bị hại giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo và người bị hại làm trong hạn luật định, đúng quy định pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn N thừa nhận hành vi phạm tội như mô tả tại bản án sơ thẩm và xác định bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản” tội danh và hình phạt theo quy định tại khoản 01 Điều 157, điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là đúng người và đúng tội.

[3]. Xét nội dung kháng cáo:

Các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn N và bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ đều kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Các bị cáo đều cho rằng mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là quá nặng, ngoài ra không đưa ra lý do nào khác. Bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ thì cho rằng cấp sơ thẩm chưa xem xét đến đơn bãi nại của anh, đơn xin giảm nhẹ hình phạt và ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt của anh đối với 4 bị cáo tại phiên tòa. Ngoài ra anh Đức còn cho rằng các bị cáo có nhân thân tốt, thật thà khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo và gia đình đã đến thăm hỏi, xin lỗi và anh cũng đã bỏ qua; các bị cáo tuổi đời còn nhỏ, không am hiểu pháp luật, có hành vi nhất thời, là lao động nghèo làm thuê ở trọ; bản thân anh cũng có một phần lỗi.

Xét thấy; các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, vai trò của các bị cáo cũng có sự phân hóa vai trò đồng phạm. Cấp sơ thẩm đã xem xét phân hóa vai trò đồng phạm, theo đó vai trò của các bị cáo Thích, Hiếu, Tình là ngang nhau và bị cáo Nguyên có vai trò thấp nhất là phù hợp sự thật khách quan và đúng quy định của pháp luật.

Trước khi lượng hình Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã cân nhắc xem xét cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm các bị cáo đều có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đồng thời bị cáo Tình và Nguyên sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã ra đầu thú, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để được áp dụng cho các bị cáo, là đúng và đầy đủ. Do đó, những lý do của bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ đề ra để kháng cáo bản án sơ thẩm là không có cơ sở chấp nhận.

Đối với mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên các bị cáo đều bị tuyên phạt 06 tháng tù đối với tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, đây đã là mức thấp nhất của khung hình phạt đối với quy định tại khoản 01, Điều 157 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T đều bị tuyên phạt 07 năm 03 tháng tù và bị cáo Nguyễn Tuấn N bị tuyên phạt 07 năm tù về tội “Cướp” tài sản là tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo.

Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được lý do để bảo vệ cho mình ngoài việc gia đình của các bị cáo có nộp xác nhận gia đình có hoàn cảnh khó khăn là không có cơ sở chấp nhận.

Như nhận định trên, căn cứ để kháng cáo của các bị cáo và của bị hại không có cơ sở chấp nhận nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và của bị hại về việc xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[4]. Đối với các nội dung khác trong bản án sơ thẩm số 116/2021/HSST ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5]. Quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Quan điểm luật sư bào chữa cho các bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm. Bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 01 Điều 355, 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn N và bị hại anh Lý Vũ Hữu Đ, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 116/2021/HSST ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 157; điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 khoản 2, Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”.

- Xử phạt các bị cáo: Bùi Quốc T, Bùi Minh H và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo: 06 (sáu) tháng tù về tội“Bắt, giữ người trái pháp luật”, 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn N 06 (sáu) tháng tù về tội“Bắt, giữ người trái pháp luật”, 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2020.

2. Về án phí: Các bị cáo Bùi Quốc T, Bùi Minh H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tuấn N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của Quyết định của bản án hình sự sơ thẩm 116/2021/HSST ngày 23/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản số 40/2022/HSPT

Số hiệu:40/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về