Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 75/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 75/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 183/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bé B, sinh năm 1978 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Châu Văn N, sinh năm 1976 Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Anh N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 31/5/2021.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bé B trình bày:

Chị và anh Châu Văn N kết hôn vào năm 2000, trên cơ sở tự nguyện nhưng chưa đăng ký kết hôn. Đến năm 2002, chị và anh N đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03/12/2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Đến cuối năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do mâu thuẫn về tiền bạc dẫn đến bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cãi, đánh nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 03/2021 đến nay. Do xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Có 02 con chung là em Châu Hải H, sinh ngày 16/3/2001, đã thành niên có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân và cháu Châu Thị N, sinh ngày 28/01/2006 đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu N, chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn anh Châu Văn N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng tại bản tự khai, biên bản hòa giải anh Ngà trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Bé B về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, thời gian chung sống, anh và chị Bé B đã ly thân khoảng 02 tháng nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn không phải là do mâu thuẫn về tiền bạc mà do chị Bé B đi du lịch vào tháng 02/2021 âm lịch mà không nói cho anh biết nên khi chị Bé B về thì 02 vợ chồng cự cãi, có đánh nhau qua lại, từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đến nay, ngoài ra không còn nguyên nhân nào khác. Anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh còn thương vợ, thương con, anh muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm để lo cho con nên anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Có 02 con chung như chị Bé B trình bày là đúng. Hiện nay em Châu Hải H, sinh ngày 16/3/2001, đã thành niên có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân và cháu Châu Thị N, sinh ngày 28/01/2006 đang sống với chị Bé B. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bé B thì anh đồng ý để chị Bé B được tiếp tục nuôi cháu N, anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Chị Bé B, anh N đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Bé B về việc xin ly hôn với anh Châu Văn N. Về con chung: Có 02 con chung là em Châu Hải H, sinh ngày 16/3/2001, đã thành niên và cháu Châu Thị N, sinh ngày 28/01/2006. Giao cháu N cho chị Bé B trực tiếp nuôi dưỡng, anh N không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bé B, anh N khai không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Bé B có yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Châu Văn N cư trú tại ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Châu Văn N có yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Bé B và anh N kết hôn vào năm 2000, trên cơ sở tự nguyện nhưng chưa đăng ký kết hôn. Đến năm 2002, chị và anh N đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 03/12/2002 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Theo đó, chị Bé B cho rằng sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu nhưng về sau phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do mâu thuẫn về tiền bạc dẫn đến bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi, đánh nhau nên chị và anh N đã sống ly thân từ tháng 3/2021 đến nay. Còn anh N thì cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn không phải là do tiền bạc mà do chị Bé B đi du lịch mà không nói cho anh biết nên khi chị Bé B về thì 02 vợ chồng cự cãi, có đánh nhau qua lại, từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đến nay. Anh còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn. Xét thấy, Tòa án đã tiến hành hòa giải để anh N, chị Bé B đoàn tụ nhưng không thành, chị Bé B vẫn kiên quyết xin ly hôn, chị không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh N. Hơn nữa, anh N cũng thừa nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân khoảng 02 tháng nay, chị Bé B ra ngoài thuê nhà trọ ở, mỗi người có một cuộc sống riêng. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Bé B và anh N đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bé B đối với anh N là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Chị Bé B và anh N có 02 con chung là em Châu Hải H, sinh ngày 16/3/2001, đã thành niên có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết và cháu Châu Thị N, sinh ngày 28/01/2006, đang sống với chị Bé B. Chị Bé B yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu N. Xét thấy, cháu N hiện đang sinh sống ổn định với chị Bé B và cháu có nguyện vọng muốn được chung sống với chị Bé B. Hơn nữa, anh N cũng đồng ý để chị Bé B được tiếp tục nuôi cháu N trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bé B. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của cháu N, tránh làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của cháu, cần giao cháu N cho chị Bé B tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình thì chị Bé B có quyền yêu cầu anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng chị Bé B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bé B, anh N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Bé B phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, khoản 1 Điều 227, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bé B đối với anh Châu Văn N.

Chị Nguyễn Thị Bé B được ly hôn với anh Châu Văn N.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Bé B và anh Châu Văn N có 02 con chung là em Châu Hải H, sinh ngày 16/3/2001, đã thành niên có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết và cháu Châu Thị N, sinh ngày 28/01/2006. Giao cháu Châu Thị N cho chị Nguyễn Thị Bé B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi.

Ghi nhận việc chị Nguyễn Thị Bé B tự nguyện không yêu cầu anh Châu Văn N cấp dưỡng nuôi con.

Anh N được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Bé B và anh Châu Văn N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bé B phải chịu là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số 0007499 ngày 12/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 75/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về