Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 47/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 136/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 21/7/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị L, sinh năm: 1998; địa chỉ: Số nhà xx, đường ĐT zz, tổ z, thôn 4, xã M, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Hòa H, sinh năm: 1990; địa chỉ: số nhà xx, đường số yy, xóm z, thôn z, xã HK, huyện T, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn chị Đinh Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đinh Thị L, anh Phạm Hòa H tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HK, huyện T, tỉnh Bình Thuận vào năm 2019. Vợ chồng sống chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn. Do anh H bị tai nạn giao thông, bên nhà chồng lời ra tiếng vào làm ảnh hưởng đến tâm lý của anh H, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gỗ, cải nhau, bên nhà chồng đuổi chị L ra khỏi nhà nên chị L về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng ly thân đến nay, không còn liên lạc hay gặp nhau. Hiện nay chị L không còn yêu thương anh H, không muốn tiếp tục chung sống với anh H nên chị L yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: Chị L và anh H có 01 người con chung tên Phạm Hòa P, sinh ngày 09/9/2019, sống với chị L từ khi vợ chồng ly thân đến nay. Chị L yêu cầu được quyền nuôi dưỡng người con chung này cho đến khi thành niên và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra chị L không có yêu cầu nào khác trong vụ án.

[2]. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Phạm Hòa H; tuy nhiên, anh H không chấp hành, không đến Tòa án làm việc; do đó, Tòa án không thu thập được lời khai, ý kiến của anh H và cũng không tiến hành hòa giải được.

[3]. Các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án:

Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp: 01 trích lục kết hôn (bản sao) số 11/TLKH- BS, ngày 04/5/2021 của Ủy ban nhân dân xã HK, huyện T, tỉnh Bình Thuận; 01 Giấy khai sinh (bản sao) số 213 của Ủy ban nhân dân xã HK, huyện T, tỉnh Bình Thuận.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành xác minh về việc cư trú của bị đơn anh Phạm Hòa H và tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh H, chị L, lập 02 biên bản xác minh và 01 biên bản ghi nhận ý kiến cùng ngày 24/5/2021.

[4]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T:

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến đề nghị giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị L: Xử cho chị Đinh Thị L được ly hôn với anh Phạm Hòa H; giao cho chị L được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 01 người con chung tên Phạm Hòa P, sinh ngày 09/9/2019 cho đến khi thành niên; anh H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở. Về án phí: Đề nghị buộc chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Đinh thị L vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Phạm Hòa H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do; đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị tiếp tục xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Trong vụ án chỉ có yêu cầu của nguyên đơn chị Đinh Thị L, yêu cầu giải quyết việc ly hôn và nuôi con, ngoài ra không có yêu cầu nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, nhận định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng pháp luật.

Tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; vụ án không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp; bị đơn có nơi cư trú tại xã HK, huyện T, tỉnh Bình Thuận; các đương sự không có văn bản thỏa thuận yêu cầu Tòa án khác giải quyết. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung vụ án:

[3.1]. Về yêu cầu giải quyết ly hôn của nguyên đơn chị Đinh Thị L, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị Đinh Thị L thừa nhận chị L và anh Phạm Hòa H tự nguyện kết hôn, không có ai ép buộc. Chị L đã cung cấp được Trích lục kết hôn (bản sao) số 11/TLKH-BS, ngày 04/5/2021 của Ủy ban nhân dân xã HK thể hiện chị L, anh H đã đăng ký kết hôn vào ngày 05/4/2019. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị L, anh H là hợp pháp. Vì vậy, chị L có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trong quá tố tụng, chị L khẳng định vợ chồng sống hạnh phúc chỉ được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên gây gỗ, cải nhau và đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn liên lạc hoặc gặp nhau, hiện nay chị L không còn yêu thương anh H, không muốn tiếp tục chung sống với anh H và cương quyết yêu cầu được ly hôn. Tại biên bản xác minh đối với ông Phạm T1 (là cha ruột của anh H) đã lập ngày 24/5/2021 cũng thể hiện: Cuối năm 2019 thì chị L, anh H xảy ra cải nhau và chị L đem con về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay, không có lần nào về nhà ông T1, cũng không thấy chị L, anh H gặp nhau. Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị xét xử, anh H không chấp hành các văn bản tố tụng của Tòa án, không đến Tòa án làm việc và tham gia hòa giải, điều này cho thấy anh H không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Do đó, có đủ căn cứ xác định vợ chồng chị L, anh H đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị L yêu cầu giải quyết cho chị L được ly hôn với anh H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần chấp nhận.

[3.2]. Về yêu cầu giải quyết việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử nhận định:

Căn cứ theo lời khai của nguyên đơn chị Đinh Thị L và Trích lục khai sinh (bản sao) số 11, ngày 04/5/2021 của Ủy ban nhân dân xã HK mà chị L đã cung cấp, có đủ cơ sở xác định chị L, anh H có 01 người con chung tên Phạm Hòa P, sinh ngày 09/9/2019. Hiện nay cháu P dưới 36 tháng tuổi và đã sống với chị L từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, đã gần gũi, quen thuộc, ổn định với nề nếp sinh hoạt, môi trường sống, môi trường giáo dục và cuộc sống với chị L. Vì vậy, chị L yêu cầu giải quyết cho chị L được quyền nuôi dưỡng cháu P là đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu P, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần chấp nhận.

Chị Đinh Thị L không yêu cầu anh Phạm Hòa H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét xử, giải quyết trong vụ án này.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét xử, giải quyết trong vụ án này.

[4] Về án phí:

Cần buộc chị Đinh Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[5] Về ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Bình Thuận:

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T về việc đề nghị giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; khoản 4 điều 147; các Điều 227, 228, 235, 273 và 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đinh Thị L:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị L được ly hôn với anh Phạm Hòa H.

Về con chung: Giao cho chị Đinh Thị L có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 01 người con chung tên Phạm Hòa P, sinh ngày 09/9/2019 cho đến khi thành niên. Anh Phạm Hòa H không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Đinh Thị L nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

[2] Về án phí: Buộc chị Đinh Thị L phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0007336 ngày 17/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bình Thuận. Sau khi khấu trừ, chị L đã nộp đủ tiền án phí.

[3] Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa đều được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết (Giải thích quyền kháng cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 47/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về