Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 195/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 195/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 760/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 806/2022/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị R, sinh năm: 1994. Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện T1, tỉnh Long An. (Chị R có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Trần Thiên V, sinh năm: 1992 Địa chỉ: Thôn T2, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/12/2021 và các văn bản tố tụng khác nguyên đơn chị Nguyễn Thị R trình bày:

Trước khi cưới, chị và anh Trần Thiên V có thời gian tìm hiểu hai năm. tự nguyện đi hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã N. Sau khi kết hôn, vợ chồng thuê nhà trọ sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng vài tháng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, về nơi ở và công việc nên vợ chồng thường có lời qua tiếng lại. Anh V nóng tính nên có vài lần đánh chị. Ngoài ra anh ham chơi với bạn bè không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng đã được gia đình hai bên nhiều lần hòa giải nhưng không ai nhường nhịn ai. Vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2018 đến nay. Chị không còn tình cảm với anh V nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một người con chung tên Trần Nguyên B, sinh ngày 11/02/2018. Hiện nay con chung đang ở với chị. Chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay thu nhập trung bình mỗi tháng của chị khoảng 5.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Trần Thiên V vắng mặt nên không có lời trình bày. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh V được biết nhưng không có văn bản phản hồi về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong quá trình giải quyết vụ án đã triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai và hòa giải được nên trong hồ sơ không thể hiện lời khai của anh V.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến nay, tất cả các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và việc tuân thủ pháp luật của các đương sự, đều theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyền Thị R đối với anh Trần Thiên V.

Giao con chung cháu Trần Nguyên B cho chị R tiếp tục nuôi dưỡng, anh V không phải ấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung chị R không yêu cầu nên miễn xét. Về án phí: Giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Nguyễn Thị R yêu cầu giải quyết ly hôn và tranh chấp về nuôi con với anh Trần Thiên V, anh V có nơi cư trú tại thị xã A, tỉnh Bình Định. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã A có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.

[2] Nguyên đơn chị R có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh V được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị R và anh V.

[3] Bị đơn anh V đã được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn không thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và tài liệu, chứng cứ thu thập được để giải quyết vụ án.

[4] Chị R và anh V đủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, thị xã A vào năm 2017 nên theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, quan hệ hôn nhân giữa chị R và anh V được pháp luật bảo vệ.

[5] Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, sống chung với nhau và cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Mặc dù trước khi cưới, chị R và anh V có thời gian tìm hiểu và tự nguyện kết hôn nhưng sau khi kết hôn một thời gian ngắn đã xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng đã không còn sống chung trong một thời gian dài. Anh V biết chị R yêu cầu ly hôn nhưng vẫn không tham gia tố tụng tại Tòa án. Qua xác minh những người thân của gia đình của anh V thì xác định anh có tâm sự với họ là không còn tình cảm với vợ, vợ chồng không thể chung sống với nhau nữa vì mâu thuẫn trầm trọng, suốt thời gian qua vợ chồng không quan tâm nhau. Qua viện dẫn và phân tích ở trên, xác định quan hệ hôn nhân giữa chị R và anh V đã thực sự trầm trọng mục đích hôn nhân không đạt được, nên theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu ly hôn của chị R là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.

[6] Vợ chồng có một người con chung là cháu Trần Nguyên B, sinh ngày 11/02/2018. Hiện nay cháu B đang ở với chị R. Xét yêu cầu của chị R về con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng: cháu B hiện tại còn nhỏ, mọi sinh hoạt hàng ngày của cháu rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Hơn nữa, hiện tại cháu B đang ở với chị và thu nhập của chị R đủ bảo đảm cho việc nuôi dưỡng cháu bé. Do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung của chị R là có căn cứ chấp nhận.

[7] Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình, anh V không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tòa giải thích về quyền lợi của con nhưng chị R vẫn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Chị R thu nhập bình quân 5.000.000 đồng/tháng đủ chi phí nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét về việc cấp dưỡng nuôi con.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Chị R không yêu cầu nên miễn xét.

[9] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 BLTTDS và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị R phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

[10] Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, khoản 1 Điều 96, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, 238, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Áp dụng các Điều 19, khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị R và anh Trần Thiên V.

2. Về con chung: Giao người con chung tên Trần Nguyên B, sinh ngày 11/02/2018 cho chị R tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục con chung cho đến tuổi trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Không xem xét về tiền cấp dưỡng nuôi con vì chị R không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người đó.

Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn hoặc về mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị R không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

4. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005035 ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A.

5. Quyền kháng cáo: Tất cả đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 195/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:195/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về