Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 130/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 130/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 264/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2021, về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Lê Huỳnh G, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp Bà Điều, xã L, thành phố C, tỉnh M (có mặt)

- Bị đơn: Anh Phạm Quốc D, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 343, đường Trần Hưng Đạo, khóm 1, phường T, thành phố C, tỉnh M (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Về hôn nhân: Chị Lê Huỳnh G và anh Phạm Quốc D chung sống với nhau vào năm 2016 nhưng đến ngày 05/4/2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Hôn nhân của anh chị là tự nguyện. Theo chị G trình bày thì quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, hiện chị G nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh D. Đối với anh D thừa nhận vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và khoảng vài tháng gần đây anh phát hiện chị G có nhắn tin tình cảm với người đàn ông khác, hiện anh chị đang sống ly thân nhau. Tại phiên hòa giải, anh D xác định anh không còn tình cảm với chị G, tuy nhiên vì thương con nên muốn có thêm thời gian để vợ chồng suy nghĩ lại mọi việc, do đó chị G yêu cầu ly hôn anh D không đồng ý.

- Về con chung: Chị G, anh D xác định có 01 người con chung tên Phạm Minh Triết, sinh ngày 27/10/2019. Hiện cháu Triết đang sống chung với chị G, trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì cả hai đều yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị G, anh D xác định tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung, nợ riêng: Chị G, anh D xác định không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của chị Lê Huỳnh G và anh Phạm Quốc D được xác định là tranh chấp về việc xin ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Huỳnh G và anh Phạm Quốc D tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2016 đến ngày 05/4/2019 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống chị G và anh D đều thừa nhận có phát sinh mâu thuẫn. Anh D cho rằng nguyên nhân là do gần đây chị G có nhắn tin tình cảm với người đàn ông khác nên phát sinh mâu thuẫn nhưng cho rằng vẫn còn khả năng đoàn tụ nên anh yêu cầu được hàn gắn, anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị G. Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân cần phải được xây dựng và vun đắp từ cả hai phía, mặc dù anh D mong muốn được hàn gắn tiếp tục chung sống với chị G nhưng bản thân chị G cho rằng không thể tiếp tục chung sống với anh D thì dù Hội đồng xét xử có bác yêu cầu của chị G thì hôn nhân của anh, chị cũng chỉ tồn tại về mặt pháp lý. Tại phiên tòa anh D xác định vẫn còn tình cảm với chị G nhưng tại phiên hòa giải ngày 28/6/2021 chính anh D xác định không còn tình cảm với chị G và thực tế trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh D không đưa ra được bất kỳ giải pháp cụ thể nào để hàn gắn, tiếp tục mối quan hệ hôn nhân với chị G. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa anh chị đã thật sự trầm trọng, việc hàn gắn đã bế tắc, đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Lê Huỳnh G xin được ly hôn với anh Phạm Quốc D.

[3] Con chung: Chị G và anh D xác định có một con tên Phạm Minh Triết, sinh ngày 27/10/2019. Hiện cháu Triết đang sống với chị G. Cả chị G và anh D đều có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định của pháp luật, cha mẹ có nghĩa vụ, quyền ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Tuy nhiên hiện nay cháu Triết mới được 01 tuổi 08 tháng 11 ngày tuổi, theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được G cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Tại phiên Tòa, anh D cũng xác định từ khi anh, chị ly thân đến nay cháu Triết đã sống với chị G. Hiện anh D không chứng minh được chị G không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho cháu Triết. Do đó, để không làm ảnh hưởng đến tinh thần của cháu Triết, cũng như để đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận G cháu Phạm Minh Triết cho chị G tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh D có nghĩa vụ, quyền thăm nom con không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không đặt ra trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị G, anh D xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung, nợ riêng: Chị G, anh D xác định không có.

[6] Về án phí: Chị G phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Huỳnh G về việc xin ly hôn với anh Phạm Quốc D.

Về con chung: Giao con chung tên Phạm Minh Triết, sinh ngày 27/10/2019, hiện đang sống cùng chị G cho chị Lê Huỳnh G tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Anh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị G, anh D xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị G, anh D xác định không có.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng, chị Lê Huỳnh G phải chịu. Chị G đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0001143 vào ngày 07/6/2021, được đối trừ, chị G đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 130/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:130/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về