Bán án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BÁN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2021/TLST- HNGĐ, ngày 25 tháng 10 năm 2021 về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:117/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Dương Thị M, sinh năm 1992; Nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện S, thành phố Hà Nội (có mặt).

-Bị đơn: Anh Ngụy Văn H, sinh năm 1990, HKTT: thôn V, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại đội 2, phân trại số 4, Trại Giam Vĩnh Quang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 10 năm 2021 quá trình giải quyết và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Dương Thị M trình bày:

Chị kết hôn với anh Ngụy Văn H ngày 13/10/2016 trước khi cưới có được tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Cưới xong hai vợ chồng đi làm ở Hà Nội. Quá trình chung sống đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn , nguyên nhân do anh H chơi bời không quan tâm đến gia đình, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không được, đến tháng 9/2018 anh H phạm tội cướp giật tài sản bị xử phạt tù, hiện đang chấp hành án tại trại giam Vĩnh Quang, nên vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn chị xin được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011 hiện đang ở cùng chị. Ly hôn chị xin nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện chị đi làm công nhân thu nhập bình quân của chị 5.000.000đ/tháng.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và công sức: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Ngụy Văn H vắng mặt tại phiên tòa, quá trình giải quyết anh có đơn xin xét xử vắng mặt, anh trình bày: Anh kết hôn với chị Dương Thị M ngày 13/10/2016 trước khi cưới có được tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình chung sống đến năm 2018 anh vi phạm pháp luật dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Nay chị M xin ly hôn anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn với chị M.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011 hiện đang ở cùng chị M. Ly hôn do anh đang đi chấp hành án nên để chị M nuôi con và anh không cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và công sức: Anh không đề nghị Toà án giải quyết.

Qua xác minh tại UBND xã L: Chị Dương Thị M và anh Ngụy Văn H kết hôn năm 2016 tại UBND L. Sau khi kết hôn chị M về chung sống cùng gia đình anh H ngay. Quá trình anh chị chung sống có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do đâu thì địa phương không nắm được, chỉ biết anh H vi phạm pháp luật hiện đang chấp hành án tại trại giam Vĩnh Quang. Về con chung: vợ chồng có một con Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011 hiện đang ở cùng chị M. Về tài sản, công nợ, công sức địa phương không nắm được. Nay anh chị ly hôn đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

1. Xử cho chị Dương Thị M và anh Ngụy Văn H được ly hôn.

2.Về con chung: Giao cho chị Dương Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu, không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Dương Thị M phải chịu theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Ngụy Văn H bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ, quá trình giải quyết anh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Dương Thị M và anh Ngụy Văn H là hôn nhân hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã , huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình vợ chồng chung sống mâu thuẫn do anh H chơi bời không quan tâm đến gia đình và do anh vi phạm pháp luật hiện đang chấp hành án tại trại giam Vĩnh Quang dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Vợ chồng ly thân từ tháng 9/2018 đến nay. Nay chị M xin ly hôn anh H đồng ý. Xét tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị M xin ly hôn anh H là có căn cứ phù hợp với Luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận.

[3]Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011 hiện đang ở cùng chị M. Ly hôn chị M xin nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Anh H trình bày do anh đang đi chấp hành án nên để chị M nuôi con và anh không cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M. Xét việc nuôi con của các bên thấy rằng hiện cháu B còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ, để đảm bảo quyền và lợi ích cho con chưa thành niên và người phụ nữ sau khi ly hôn. Việc chị M xin nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là tự nguyện nên chấp nhận. Do vậy căn cứ vào Điều 81, Điều 82 luật Hôn nhân gia đình giao chị M trực tiếp nuôi cháu Dương Thị Khánh B và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M.

[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và công sức: Chị M, anh H không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị M phải chịu theo quy định của pháp luật.

[ 6 ] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị có căn cứ, phù hợp với phần nhận định, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án.

1. Xử cho chị Dương Thị Mvà anh Ngụy Văn H được ly hôn.

2.Về con chung: Giao cho chị Dương Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Khánh B, sinh ngày 01/9/2011, hiện cháu B đang ở cùng chị M. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M. Anh H có quyền thăm nuôi con không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Dương Thị M phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ số tiền 300.000đ chị đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0006048 ngày 25/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch. Chị M nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi cư trú của người vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về