Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 153/2021/TLST – HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐST - HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04a/2022/QĐST – HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y – sinh năm 1994. (Có mặt tại phiên tòa). Địa chỉ: Xóm Đoài B, xã Nghĩa S, huyện Nghĩa Đ, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Trần Vũ L – sinh năm 1990. (Vắng mặt tại phiên tòa). Địa chỉ: Xóm Đoài B, xã Nghĩa S, huyện Nghĩa Đ, tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Y trình bày: Chị và anh Trần Vũ L có đăng ký kết hôn vào ngày 12 tháng 9 năm 2011 tại UBND xã Nghĩa S, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị về sống chung cùng bố mẹ chị Y tại xóm Đoài B, xã Nghĩa S, huyện Nghĩa Đàn. Sống với nhau cũng khá hạnh phúc khoảng được thời gian khá dài thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh thường xuyên đi uống rượu, có lúc về còn đánh đập chị. Chị đã bỏ qua và nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh L vẫn không thay đổi. Do cuộc sống gia đình bức bách và mâu thuẫn ngày càng nhiều nên anh chị đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2018 cho đến nay. Trong khoảng hơn ba năm sống ly thân không ai quan tâm, hỏi han gì đến nhau. Nay xét thấy cuộc hôn nhân không có hạnh phúc, tình cảm không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Y yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Anh chị có hai con chung là Trần Vũ D, sinh ngày 12/7/2011 và Trần Vũ L1, sinh ngày 03/3/2018. Nếu ly hôn thì nguyện vọng của chị Y là được nuôi cả hai con vì từ khi anh chị sống ly thân đến nay cả hai con đều sống cùng với chị, chị không yêu cầu anh L có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Yến không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với anh Trần Vũ L: Quá trình nộp hồ sơ tại Tòa án, chị Y đã gửi cho anh đơn xin ly hôn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tòa án cũng đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho anh L nhưng anh L vẫn cố tình không hợp tác, không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh L vẫn không có mặt. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết vắng mặt anh L.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về trình tự tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, ban hành các quyết định đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã làm đúng trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt các giấy tờ hợp lệ nhưng vẫn cố tình không chấp hành.

Về việc giải quyết vụ án đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Y là được ly hôn với anh Trần Vũ L. Về con cái: Giao các con chung Trần Vũ D, sinh ngày 12/7/2011 và Trần Vũ L1, sinh ngày 03/3/2018 cho chị Y được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến lúc con chung đã trưởng thành. Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L do chị Y không yêu cầu. Về tài sản chung: Chị Y không yêu cầu nên không xem xét.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và đương sự có mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của chị Nguyễn Thị Y.

2. Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Vũ L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh L theo quy định tại Điều 227 và 228 – Bộ luật tố tụng dân sự.

3. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Y và anh Trần Vũ L có mối quan hệ hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc với nhau được khoảng thời gian khá dài thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, anh L không có trách nhiệm chăm lo cho gia đình và có nhiều lúc còn dùng bạo lực gia đình với chị. Từ hơn ba năm nay anh chị đã sống ly thân nhau nhưng không ai hỏi han hay quan tâm đến nhau. Đối với anh L nhiều lần Tòa án đã triệu tập anh lên để hòa giải nhưng anh vẫn cố tính không lên, điều đó thể hiện anh không có thiện chí hòa giải để vợ chồng về chung sống với nhau. Xét thấy tình cảm của cả hai bên đều không còn nữa, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Y là được ly hôn với anh Trần Vũ L.

4. Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Y và anh Trần Vũ L có hai con chung là Trần Vũ D, sinh ngày 12/7/2011 và Trần Vũ L1, sinh ngày 03/3/2018. Nguyện vọng của chị Y là được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh L đóng góp cấp dưỡng. Xét nguyện vọng của chị Y là hoàn toàn phù hợp vì từ khi anh chị sống ly thân đến nay các cháu đều sống cùng với chị, anh L cũng không có trách nhiệm chăm lo cho các con. Để cuộc sống của các cháu được ổn định, không bị xáo trộn về mặt sinh hoạt, học tập và xét về các điều kiện để chăm sóc tốt nhất nên cần giao các con chung cho chị Y được trực tiếp nông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con chung thì chị Yến không yêu cầu nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L.

5. Về quan hệ tài sản: Chị Y không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

6. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, Điều 35, điều 147, Điều 227 và 228 – Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, 71, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đìnhNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Y là được ly hôn với anh Trần Vũ L.

2. Về nuôi con chung: Giao các con chung Trần Vũ D, sinh ngày 12/7/2011 và Trần Vũ L1, sinh ngày 03/3/2018 cho chị Y được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến lúc các con chung đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L do chị Y không yêu cầu; Anh L có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích mọi mặt của con chung, khi có căn cứ hoặc có lý do chính đáng có thể thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Y không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Y đã nộp đủ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đống) tại biên lai thu tiền số 0005607 ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghĩa Đàn.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Y được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn là anh Trần Vũ L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về