Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 02/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG

Ngày 05 tháng 4 năm 2022, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 115/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị H’ Wiêt K, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Hàn L – Luật sư Văn phòng Luật sư HL, thuộc đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: Số nhà K13, đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Y Khăn N, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Buôn J, xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Phùng Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 23/6/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị H’ Wiêt K trình bày:

Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng tại buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ tháng 8/2009, nhưng không đăng ký kết hôn, chị H’ Wiêt và anh Y Khăn N chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị H’ Wiết không xin được việc làm cho anh Y Khăn, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, anh, chị đã sống ly thân từ tháng 4/2013 đến nay. Nay chị H’ Wiêt nhận thấy tình cảm giữa chị và anh Y Khăn không còn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, chị và anh Y Khăn không còn chung sống với nhau đã lâu nên chị yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lắk giải quyết cho chị ly hôn với anh Y Khăn N.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N có 02 con chung tên là Y Sam K, sinh ngày 24/3/2012 và H’ Lem K, sinh ngày 01/01/2013, hiện nay các con đang sống chung với chị H’ Wiêt ở buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, khi ly hôn chị H’ Wiêt yêu cầu được trực tiếp nuôi cả hai con và yêu cầu anh Y Khăn cấp dưỡng cho con H’ Lem K, mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/tháng, đến khi cháu H’ Lem K đủ 18 tuổi. Vì cháu H’ Lem bị khuyết tật vận động, trí tuệ mức độ nặng.

Về tài sản và nợ chung: Chị H’ Wiêt K xác định chị và anh Y Khăn N không có tài sản chung và hiện nay không nợ ai tài sản gì nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 23/7/2020 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Y Khăn N trình bày:

Anh Y Khăn N và chị H’ Wiêt K sống chung với nhau như vợ chồng tại buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ tháng 8/2009, nhưng không có đăng ký kết hôn. Anh, chị chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống anh, chị không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau về kinh tế gia đình, mâu thuẫn giữa anh Y Khăn và chị H’ Wiêt ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, anh Y Khăn và chị H’ Wiêt đã sống ly thân từ tháng 5/2013 đến nay. Nay chị H’ Wiêt yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Y Khăn, anh Y Khăn đồng ý ly hôn với chị H’ Wiêt.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh Y Khăn N và chị H’ Wiêt K có 02 con chung là Y Sam K, sinh ngày 24/3/2012 và H’ Lem K, sinh ngày 01/01/2013. Khi ly hôn anh Y Khăn yêu cầu được nuôi con Y Sam K, giao con H’ Lem K cho chị H’ Wiêt trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do thu nhập của anh Y Khăn chỉ được 3.500.000 đồng/tháng, nên anh Y Khăn chỉ đồng ý cấp dưỡng cho con Y Sam K, mức cấp dưỡng là 1.000.000 đồng/tháng đến khi Y Sam K đủ 18 tuổi.

Về tài sản và nợ chung: Anh Y Khăn N xác định anh và chị H’ Wiêt K không có tài sản và nợ chung, nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 24/12/2020 cháu Y Sam K trình bày:

Cháu là con của bố Y Khăn N và mẹ H’ Wiêt K, hiện nay cháu đang ở cùng mẹ cháu tại buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Cháu có biết việc mẹ cháu yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bố cháu, nếu bố mẹ cháu ly hôn, nguyện vọng của cháu muốn được ở với mẹ.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và về việc giải quyết vụ án:

-Về thẩm quyền giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự đúng quy định của pháp luật.

-Về chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn và bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự.

-Về việc giải quyết vụ án: Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N chung sống với nhau từ tháng 8/2009, nhưng không đăng ký kết hôn, nay chị H’ Wiêt yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Y Khăn. Căn cứ Điều 14, Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghi Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H’ Wiêt K.

-Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N.

-Về con chung: Giao cháu Y Sam K, sinh ngày 24/3/2012 và H’ Lem K, sinh ngày 01/01/2013 cho chị H’ Wiêt K trực tiếp nuôi dưỡng.

-Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Y Khăn N phải cấp dưỡng cho cháu H’ Lem K 1.500.000 đồng/tháng, đến khi cháu H’ Lem đủ 18 tuổi.

-Về tài sản và nợ chung: Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N xác định không có nên không xem xét giải quyết.

-Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình cho chị H’ Wiêt K và án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con cho anh Y Khăn N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị H’ Wiêt K khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Y Khăn N, yêu cầu về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Đây là quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con”. Bị đơn anh Y Khăn N cư trú tại: buôn J, xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về các yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 8/2009, nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp, quá trình chung sống giữa chị H’ Wiêt và anh Y Khăn phát sinh mâu thuẫn, chị H’ Wiêt khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Y Khăn. Qua xác minh tại buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nơi chị H’ Wiêt và anh Y Khăn cư trú từ năm 2008 đến năm 2013, thể hiện chị H’ Wiêt và anh Y Khăn đã xảy ra mâu thuẫn từ đầu năm 2013, anh, chị đã sống ly thân từ tháng 4/2013 đến nay.

Do chị H’ Wiêt và anh Y Khăn không đăng ký kết hôn, căn cứ vào Điều 14, Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N.

Về con chung: Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N có 02 con chung là Y Sam K, sinh ngày 24/3/2012 và H’ Lem K, sinh ngày 01/01/2013, khi ly hôn chị H’ Wiêt yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Xét điều kiện, hoàn cảnh của chị H’ Wiêt K, nguyện vọng của cháu Y Sam K và quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành Nn, từ trước đến nay cháu Y Sam K và H’ Lem K ở với chị H’ Wiêt tại buôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk có nơi ở, sinh hoạt, học tập ổn định. Đồng thời chị H’ Wiêt có công việc và thu nhập ổn định. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Y Sam K và H’ Lem K cho chị H’ Wiêt K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Anh Y Khăn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị H’ Wiêt K yêu cầu anh Y Khăn N cấp dưỡng cho cháu H’ Lem K với mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/tháng, đến khi cháu H’ Lem đủ 18 tuổi.

Hội đồng xét xử xét thấy chị H’ Wiêt làm nông, thu nhập không cao, đời sống kinh tế khó khăn và là hộ nghèo, từ khi chị H’ Wiêt và anh Y Khăn không chung sống với nhau đến nay, chị H’ Wiêt là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung của chị và anh Y Khăn, cháu H’ Lem K bị khuyết tật vận động và trí tuệ, mức độ nặng, còn anh Y Khăn N có công việc và thu nhập ổn định, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con cho cháu H’ Lem của chị H’ Wiêt là cần thiết.

Về tài sản và nợ chung: Chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N xác định anh, chị không có tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về án phí: Chị H’ Wiêt K anh Y Khăn N là người đồng bào dân tộc thiểu số cứ trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 235, các điều 266, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 14, 53, 81, 82, 83, 107, 110 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H’ Wiêt K.

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị H’ Wiêt K và anh Y Khăn N.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Y Sam K, sinh ngày 24/3/2012 và H’ Lem K, sinh ngày 01/01/2013 cho chị H’ Wiêt K trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Y Khăn N có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu H’ Lem K, mức cấp dưỡng 1.500.000 đồng/tháng (Một triệu năm trăm nghìn đồng một tháng), thời gian cấp dưỡng: Từ ngày 05/4/2022 (ngày mùng năm tháng tư năm hai nghìn không trăm hai mươi hai) đến khi cháu H’ Lem K đủ 18 (mười tám) tuổi.

4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình cho chị H’ Wiêt K và án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Y Khăn N.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về