Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 794/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 794/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 428/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Kim Quế A, sinh năm: 1989 Địa chỉ: 849 đường X, Tổ 6, khu phố H, phường M, thành phố Đ, HCM.

- Bị đơn: Anh Bùi V, sinh năm: 1990 Địa chỉ: Tổ 3, KV8, phường P, thành phố QN, tỉnh BĐ. (Chị A, anh V vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Kim Quế A:

Chị A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2022 và các lời khai tiếp theo chị A trình bày: Chị và anh Bùi V tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND P. Nhơn Phú, TP. Quy Nhơn vào ngày 12/02/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, tổn thương tình cảm của nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, mạnh ai nấy sống. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 con chung là cháu Bùi Ngọc Kim N, sinh ngày 05/7/2019. Từ khi sinh ra, cháu sống với chị tại 849 đường X, Tổ 6, khu phố H, phường M, thành phố Đ, HCM, còn anh V sống tại Tổ 3, KV8, phường P, thành phố QN, tỉnh BĐ . Ngày 25/12/2021 (âm lịch) anh V có vào TP. Hồ Chí Minh xin phép chị dẫn cháu Ngân về đón Tết và thăm ông, bà nội. Tuy nhiên, sau Tết anh V cho rằng muốn nuôi con nên không cho chị dẫn cháu về lại TP. Hồ Chí Minh. Chị nhiều lần đến thăm cháu đều thấy mẹ anh V chăm sóc cháu không được tốt, còn anh V là tài xế lái xe tải đường dài nên thường xuyên vắng nhà. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung do anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng thỏa thuận tự giải quyết, không yêu cầu Tòa giải quyết. Nợ chung: Vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa giải quyết.

* Bị đơn anh Bùi V:

Tại phiên tòa, anh V vắng mặt. Tuy nhiên, tại bản khai ngày 22/3/2022 và các lời khai tiếp theo, anh công nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị A đã trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị A có người đàn ông khác và vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay. Chị A có đơn xin ly hôn, anh cũng đồng ý. Về con chung, anh thống nhất vợ chồng có 01 con chung, từ đầu năm 2022 đến nay cháu N sống với anh. Sau khi ly hôn, anh có nguyện vọng tiếp tục nuôi cháu N, không yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung, anh chị tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của BLTTDS kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, Điều 72 BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật HNGĐ: Chấp nhận yêu cầu của chị Kim Quế A được ly hôn anh Bùi V; Giao cháu Bùi Ngọc Kim N cho chị Kim Quế A trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Kim Quế A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Bùi V vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án (khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự).

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Kim Quế A và anh Bùi V tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND P. Nhơn Phú, TP. Quy Nhơn vào ngày 12/02/2019, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa chị A và anh V đã phát sinh mâu thuẫn, sống ly thân từ năm 2020 đến nay. HĐXX xét: Hôn nhân của chị A và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị A là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[2.2] Về nuôi con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Bùi Ngọc Kim N, sinh ngày 05/7/2019. HĐXX xét: Các đương sự đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, cháu N hiện nay còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ. Chị A có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng tốt cháu N. Trong khi anh V là tài xế lái xe đường dài, không thuận tiện trong việc chăm sóc cháu N. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị A, buộc anh V phải giao cháu N cho chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Chị A không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.3] Về chia tài sản: Chị A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Sau này có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác nếu có yêu cầu.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Chị A phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ sơ thẩm.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Kim Quế A ly hôn anh Bùi V.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung là cháu Bùi Ngọc Kim N, sinh ngày 05/7/2019 cho chị Kim Quế A được trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Chị A không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được ngăn cản. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: Chị A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Kim Quế A phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003502 ngày 15/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn. Chị A đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 794/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:794/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về