Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 74/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 74/2023/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2023/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2023/QĐXX-ST, ngày 07 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2023/QĐST-HNGĐ, ngày 27/9/2023, giữa:

1/ Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Y - Sinh năm 1998 Địa chỉ: Thôn 4, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

2/ Bị đơn: Anh Đinh Văn T - Sinh năm 1996 Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 03/7/2023, bản tự khai, nguyên đơn chị Đỗ Thị Y trình bày: Chị và anh T kết hôn ngày 19/12/2017, trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã N cấp đăng ký kết hôn. Quá trình vợ chồng chung sống đến tháng 11 năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không còn phù hợp, không có tiếng nói chung. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 11 năm 2022 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân hai bên không còn quan tâm gì đến nhau. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh T theo quy định; về con: vợ chồng có 01 con chung là Đinh Ngọc Diệp, sinh ngày 13/11/2018. Hiện tại cháu đang ở cùng chị. Sau ly hôn, chị đề nghị được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản và nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Đinh Văn T: sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Nhưng anh T cố tình vắng mặt nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

Vụ án có liên quan đến người chưa thành niên, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh T vắng mặt, nên việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ chỉ tiến hành được với nguyên đơn, đồng thời Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy,Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Mặc dù anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử (HĐXX) quyết định hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Y vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu. Đối với bị đơn anh T được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai, vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Y, cho chị Y được ly hôn anh T.Về con: Giao cháu Đinh Ngọc Diệp, sinh ngày 13/11/2018 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng; anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về án phí: chị Y phải chịu án phí DSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, và ý kiến trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thủ tục tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

* Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị Y và anh Đinh Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau đến tháng 11 năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn theo chị Y trình bày là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, không có tiếng nói chung.Vợ chồng sống ly thân từ tháng 11 năm 2022 cho đến nay, không ai còn quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Chị Y yêu cầu ly hôn anh T theo quy định. Xét cuộc sống chung của chị Y và anh T đã sống ly thân, cuộc sống chung không thể duy trì, mục đích hôn nhân không đạt được nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị Y, cho chị Y được ly hôn anh T là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về con: vợ chồng có 01 con chung là Đinh Ngọc Diệp, sinh ngày 13/11/2018. Sau ly hôn, chị Y đề nghị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của chị Y về việc trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn tự nguyện và chính đáng. Qua xác minh tại UBND xã N thì cháu Diệp đang sinh sống cùng chị Y. Để cuộc sống của cháu được ổn định nên giao cháu Diệp cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp thực tế.

* Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không phải thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con chung do chị Y không yêu cầu.

[3] Về tài sản: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Y, cho chị Y được ly hôn anh Đinh Văn T.

2. Về con: Giao cháu Đinh Ngọc Diệp, sinh ngày 13/11/2018 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Y phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2021/0015244 ngày 03/7/2023 của Chi cục THADS huyện Nga Sơn, chị Y đã nộp đủ án phí DSST.

4. Quyền kháng cáo: Chị Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 74/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về