Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 191/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 2000; cư trú tại: Số nhà BCA/M, khu phố TL, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

2. Bị đơn: Anh Trần Chu Cao S, sinh năm 1998; cư trú tại: Số nhà Bh/HH, Tổ HH, Khu phố H, Phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

(Các đương sự vắng mặt tại Tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 02 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Tr và anh Trần Chu Cao S chung sống và đăng ký kết hôn với nhau từ năm 2020 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 58, ngày 06 tháng 7 năm 2020.

Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian gần đây vợ chồng liên tục xảy ra những mâu thuẫn, tranh cãi gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc tính tình không hợp nhau và quan điểm sống quá khác biệt.

Chị Tr nhận thấy rằng sẽ khó có thể tiếp tục xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc như mong muốn trong tình trạng mâu thuẫn trầm trọng như vậy. Chị Tr và anh S sống ly thân từ tháng 11/2021 cho đến nay nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chỉ còn ràng buộc với nhau về mặt pháp lý nên chị Tr yêu cầu được ly hôn với anh S.

- Về con chung: Chị Tr và anh S có 01 con chung là cháu Trần Huy H, sinh ngày 21/01/2021. Sau khi ly hôn, chị Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung;

yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trần Chu Cao S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh S được.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr có đơn xin giải quyết vắng mặt; anh Trần Chu Cao S vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật, riêng bị đơn anh Trần Chu Cao S chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.Tại phiên tòa, các đương sự đều có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 18 tháng 02 năm 2022, chị Nguyễn Thị Tr có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trần Chu Cao S; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con chung nên đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[1.2] Về thẩm quyền: Tại thời điểm thụ lý, bị đơn anh Trần Chu Cao S đang cư trú tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn anh và bị đơn anh Trần Chu Cao S vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tr và anh S chung sống với nhau từ năm 2020, ngày 06 tháng 7 năm 2020 chị Tr và anh S đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 58. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa chị Tr và anh S là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình; do đó hôn nhân giữa chị Tr và anh S là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, chị Tr xác định vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, thời gian gần đây thì vợ chồng có nhiều mâu thuẫn mà nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng; từ tháng 11/2021 cho đến nay, chị Tr và anh S sống ly thân, không ai còn quan tâm đến ai nữa.

Việc, chị Tr và anh S không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn là đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Hơn nữa, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh S nhiều lần để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng anh S vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ anh S không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa chị Tr và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của chị Tr, cho chị Tr được ly hôn với anh S.

[2.2] Về con chung: Chị Tr và anh S có 01 con chung là cháu Trần Huy H, sinh ngày 21/01/2021. Sau khi ly hôn, chị Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án chị Tr không cung cấp được tài liệu chứng minh chị Tr có đủ khả năng nuôi dạy con chung, tuy nhiên từ khi ly thân vào tháng 11/2021 cho đến nay cháu Hoàng vẫn đang sinh sống cùng với chị Tr; còn anh S, không đến Tòa án làm việc nên không biết được nguyện vọng và khả năng của anh S về phần con chung là như thế nào. Mặt khác, cháu H chưa đủ 36 tháng tuổi, do đó để cháu H có điều kiện phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội, cần giao cháu H cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên yêu cầu của chị Tr về phần con chung được chấp nhận.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Tr yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng. Xét thấy, chị Tr không cung cấp được chi phí hợp lý cho con chung, không cung cấp được thu nhập của anh S, tuy nhiên mức cấp dưỡng mà chị Tr yêu cầu anh S cấp dưỡng là phù hợp với thực tế nên cần được chấp nhận. Buộc anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng từ khi tuyên án đến khi con chung đủ 18 tuổi.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[3] Tại Tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở.

[4]. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Chị Tr phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; anh S phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 238, 266, 267, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn là anh Trần Chu Cao S.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn với anh Trần Chu Cao S.

1.2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Tr được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con chung là cháu Trần Huy H, sinh ngày 21/01/2021.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Trần Chu Cao S có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung với mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng trên một tháng), thời gian cấp dưỡng từ khi tuyên án (tháng 7/2022) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

1.4. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cấm đoán, ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng, xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ cho rằng bên kia không đáp ứng được quyền lợi của con.

1.5. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Tr phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng); được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thị Tr đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001217 ngày 28/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Anh Trần Chu Cao S phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

3. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về