Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 143/2022/TLST- HNGĐ ngày 25/02/2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54A/2022/QĐST - HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 48/2022/QĐST-NHGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Huỳnh Văn V, sinh năm 1982 (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Chị Lương Thị Thanh T, sinh năm 1987 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/6/2021, trong quá trình tố tụng nguyên đơn anh Huỳnh Văn V trình bày:

Anh và chị Lương Thị Thanh T cưới nhau năm 2005 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Ngãi (Phước Ngãi), huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre trên cơ sở tự nguyện do tự tìm hiểu. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 6 năm 2021 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên gây gổ, cự cải nhau. Anh và chị T đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2021 cho đến nay không có hàn gắn lại được với nhau. Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn với chị Lương Thị Thanh T.

Về con chung: Anh và chị T có 01 con chung tên Huỳnh Y P, sinh ngày 10/8/2005, hiện đang sống với anh. Khi ly hôn anh yêu cầu nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Bị đơn chị Lương Thị Thanh T vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên không có lời trình bày.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, Thẩm phán đã tuân thủ và tiến hành đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Thành viên Hội đồng xét xử thể hiện sự vô tư, khách quan, độc lập khi xét xử. Nguyên đơn chấp hành nghiêm túc quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án đưa ra xét xử đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Áp dụng các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh V đối với chị T. Về con chung: giao con chung tên Huỳnh Y P, sinh ngày 10/8/2005 cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh V không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, nợ chung: không có nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh tụng, ý kiến của đại diện V kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn chị Lương Thị Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng chị T vắng mặt không lý do. Nguyên đơn anh Huỳnh Văn V có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Lương Thị Thanh T và anh Huỳnh Văn V.

[2] Về quan hệ hôn nhân: anh V và chị T kết hôn năm 2005 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Ngãi (nay là Phước Ngãi), huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre vào ngày 08/12/2005 trên cơ sở tự nguyện nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến khoảng giữa năm 2021 đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi. Trong thời gian sống ly thân hai bên không hàn gắn được với nhau. Tòa án đã tiến hành phiên hòa giải giữa anh V và chị T nhưng chị T vẫn không tham dự hòa giải, thể hiện chị T không muốn hàn gắn cuộc hôn nhân. Qua đó, đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa anh V và chị T đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, anh V yêu cầu ly hôn với chị T là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh V và chị T 01 con chung là Huỳnh Y P, sinh ngày 10/8/2005. Từ khi anh V, chị T sống ly thân đến nay thì cháu P sống cùng anh V. Do đó, để ổn định tâm lý, cũng như sự phát triển bình thường của cháu P yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung của anh V là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh V tự nguyện không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện anh V được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

[6] Xét quan điểm đề nghị về nội dung giải quyết vụ án của đại diện V kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri là cùng quan điểm nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh Huỳnh Văn V phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ các Điều 28, 39, 147, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Anh Huỳnh Văn V được ly hôn với chị Lương Thị Thanh T. Quan hệ hôn nhân theo giấy chứng nhận kết hôn số 41 ngày 08/12/2005 của Ủy ban nhân dân xã Phú Ngãi (nay là Phước Ngãi), huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre chấm dứt kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao con chung Huỳnh Y P, sinh ngày 10/8/2005 cho anh Huỳnh Văn V được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh V không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Chị Luong Thị Thanh T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Trường hợp chị T lạm dụng việc thăm nom con để gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu P thì anh V có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị T. Vì lợi ích của con chung hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không tranh chấp.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh Huỳnh Văn V phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền số 0003792 ngày 08/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về