Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 60/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 297/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1997; Địa chỉ: Ấp TĐ, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre, có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 08/6/2022.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1994; Địa chỉ: Ấp TĐ, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre, có đơn xin giải quyết vắng mặt đề ngày 10/5/2022.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/11/2021 và các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim N trình bày:

Về hôn nhân: Trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết nhau trước, chị và anh Nguyễn Thanh T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre, vào ngày 08/9/2016. Sau khi kết hôn, anh chị sống tại ấp TĐ, xã TT, xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau, anh T có hành vi sử dụng ma túy và có bạo lực với vợ con. Anh T đã nhiều lần bị cơ quan chức năng đưa đi cai nghiện ma túy. Anh chị chính thức sống ly thân từ ngày 06/01/2021 cho đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T vì mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/6/2017, hiện đang sống với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi cháu B, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai.

Tại các biên bản lấy lời khai ngày 13/01/2022 và ngày 10/5/2022, bị đơn anh Nguyễn Thanh T trình bày như sau:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với trình bày của chị Ng về điều kiện, thời gian kết hôn, quá trình chung sống. Về nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh Bến Tre. Anh vẫn còn thương vợ thương con nhưng do chị Ng đã cương quyết ly hôn nên anh đồng ý ly hôn với chị Ng.

Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/6/2017, hiện đang sống với chị Ng. Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị Ng tiếp tục trực tiếp nuôi cháu B và anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai.

Tại Biên bản xác minh đối với Trưởng ấp TĐ, xã TT đề ngày 10/01/2022 về nguyên nhân mâu thuẫn của chị Nguyễn Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T có nội dung như sau:

Chị Nguyễn Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, chị Ng và anh T sinh sống tại ấp TĐ, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre và có 01 người con hiện đang sống bên ngoại. Hiện tại anh T không có nghề nghiệp ổn định, trước đây từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc do sử dụng ma túy và hiện tại chính quyền địa phương cũng đang hoàn chỉnh hồ sơ để tiếp tục đưa T đi cai nghiện ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử là đảm bảo đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể vắng mặt vào các lần Tòa mời hòa giải và công khai chứng cứ.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim Ng; Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Kim Ng tiếp tục trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/6/201, anh Nguyễn Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Kim N không có yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhân dân huyện M nhận định:

[1] Đối với nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim Ng và bị đơn anh Nguyễn Thanh T đều có đơn xin giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh T là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân của chị Nguyễn Thị Kim Ng và anh Nguyễn Thanh T là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, do anh T sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều lần bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau. Anh chị chính thức sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay và trong thời gian sống ly thân anh chị sống bỏ mặc, không quan tâm đến nhau. Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện anh T đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở Cai nghiện ma túy tỉnh Bến Tre. Tại đơn khởi kiện và các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ng yêu cầu được ly hôn với anh T vì mâu thuẫn đã trầm trọng. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/5/2022, anh T xác định anh vẫn còn thương vợ thương con nhưng do chị Ng đã cương quyết ly hôn nên anh đồng ý ly hôn với chị Ng. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc sống hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ng là phù hợp.

[3] Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/6/2017, hiện đang sống với chị Ng. Chị Ng có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi cháu B. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/5/2022, anh T đồng ý để chị Ng tiếp tục trực tiếp nuôi cháu B. Vì vậy, Tòa án giao cháu B cho chị Ng tiếp tục trực tiếp nuôi sau khi anh T và chị Ng ly hôn là phù hợp. Đối với yêu cầu cấp dưỡng, việc chị Ng không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện nên ghi nhận.

[4] Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai nên không đề cập.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim Ng phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M là phù hợp hoàn toàn với nhận định của Tòa nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim Ng. Chị Nguyễn Thị Kim Ng được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

2. Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Kim Ng tiếp tục trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/6/2017; Anh Nguyễn Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Kim Ng không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và không có nợ ai nên không đề cập.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim Ng phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Ng đã nộp theo biên lai thu số ******* ngày **/**/**** của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M nên không phải nộp thêm.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về