Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HN-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G – TỈNH B

BẢN ÁN 58/2022/HN-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/02/2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/4/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1992; hộ khẩu thường trú: ấp 4, xã L, huyện G, tỉnh B. Địa chỉ hiện nay tổ 07, phường B, thành phố T, tỉnh T (vắng có đơn).

2. Bị đơn: anh Phạm Văn T, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp 4, xã L, huyện G, tỉnh B (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/11/2021, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Do quen biết và được cha mẹ hai bên đồng ý nên chị và anh T tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (ghi tắt là UBND) xã L (G, B) theo quy định pháp luật. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng về sau, vợ chồng sống không hòa hợp, bất đồng quan điểm và đã ly thân từ năm 2018 đến nay. Đến thời điểm này, do hai bên đã không còn quan tâm, tin tưởng nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh T. Con chung là Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013 do chị nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Khi ly hôn, chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình tố tụng, bị đơn anh Phạm Văn T trình bày:

Qua thời gian tìm hiểu, anh và chị D tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L (G, B) vào ngày 02/02/2012. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng sau này, do chị D về nhà cha mẹ ruột lại tự ý không trở về nên hai bên phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân từ năm 2016 đến nay. Do thời gian ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng với chị D không còn nên anh đồng ý ly hôn. Con chung là Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013 hiện do chị D nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh đồng ý để chị D trực tiếp nuôi hai con, anh không cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn, bị đơn vắng nhưng có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Quan điểm của Viện kiểm sát:

- Về thủ tục: Sau khi nhận đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và xem xét có đủ điều kiện thụ lý, Tòa án đã tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo đúng quy định. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập đầy đủ làm cơ sở giải quyết đúng quy định. Thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm B theo quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành các hoạt động tố tụng theo đúng quy định chung về phiên tòa sơ thẩm. Thư ký phiên tòa đã thực hiện các công việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa và các nhiệm vụ, quyền hạn của mình đúng quy định. Đương sự đã tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án vẫn được xét xử theo đúng quy định pháp luật.

- Về nội D: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D, cụ thể:

+ Về hôn nhân: chị D được ly hôn với anh T.

+ Về con chung: giao Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013 cho chị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên. Ghi nhận chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, chị D có quyền yêu cầu Toà án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai hoặc của cá nhân, cơ quan tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: cả hai trình bày không có, không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về thủ tục: tại phiên toà, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, việc đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung

[1] Về hôn nhân: do chị D và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại UBND xã L (G, B) vào ngày 02/02/2012 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Sau khi kết hôn, thời gian đầu, hai bên chung sống hạnh phúc. Nhưng đến năm 2018, do bất đồng quan điểm nên hai bên phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian ly thân, cả hai không có thiện chí hoà giải, xoa dịu những bất đồng nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Trong quá trình tố tụng, chị D xác định hai bên không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn và giữ nguyên yêu cầu ly hôn; anh T cũng xác định hai bên không còn tình cảm và đồng ý ly hôn với chị D. Điều này thể hiện tình trạng mâu thuẫn giữa hai bên đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài và không còn khả năng hàn gắn. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013. Xét thấy, từ khi chị D và anh T sống ly thân đến nay, hai con chung ở với chị D, cuộc sống đã ổn định; trong quá trình tố tụng, hai con chung cũng có nguyện vọng ở với mẹ; anh T cũng không tranh chấp. Do đó, xét yêu cầu trực tiếp nuôi hai con chung của chị D là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: cả hai trình bày không có, không yêu cầu giải quyết.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị D phải nộp số tiền là 300.000 đồng theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/- Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Phạm Văn T.

2/- Con chung: Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013.

Giao Phạm Gia B sinh ngày 04/6/2011 và Phạm Gia L sinh ngày 28/12/2013 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận chị D tự nguyện không yêu cầu anh Phạm Văn T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3/- Tài sản chung, nợ chung: cả hai trình bày không có, không yêu cầu giải quyết.

4/- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: buộc chị Nguyễn Thị D phải nộp số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004689 ngày 18/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G. Do đó, án phí sơ thẩm, chị D đã nộp xong.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 58/2022/HN-ST

Số hiệu:58/2022/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về