Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 309/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: anh Huỳnh Phước Th, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp Tân L B, xã Bình Th, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: chị Lý Cẩm H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp Phú H, thị trấn Chợ V, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

(Anh Th yêu cầu vắng mặt, chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và lời trình bày của nguyên đơn có tại hồ sơ, thể hiện:

Vào năm 2008, anh Th và chị Hòa kết hôn với nhau, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Chợ Vàm (Giấy chứng nhận kết hôn số 70, ngày 19/7/2008). Nguyên nhân mâu thuẫn: anh Th xác định sự việc xảy ra vào năm 2020, do chị H không chung thủy, đem tài sản vợ chồng cho người khác, anh nhiều lần khuyên ngăn nhưng không được, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, đã ly thân từ tháng 7 năm 2020 đến nay. Thời kỳ chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Lý Bảo Ng, sinh ngày 18/7/2010, con chung do H đang nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung không có.

Anh Th yêu cầu ly hôn với chị H. Về con chung, đồng ý cho H tiếp tục nuôi con chung, không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn: Tòa án đã triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và 02 lần để xét xử, nhưng bị đơn đều vắng mặt không rõ lý do, nên không ghi nhận được ý kiến.

Tòa án tiến hành xác minh về tình trạng hôn nhân được bà Lý Cẩm Chứ (mẹ ruột của H) và bà Ngô Thị N (mẹ ruột của Th) cho biết: Th và H là vợ chồng vào năm 2008, sau khi cưới nhau thì lên thành phố Hồ Chí Minh thuê nhà trọ sinh sống, H thì phụ việc nhà cho người khác, Th thì mở tiệm sửa xe honda, mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên cự cãi, bà Chứ thì cho rằng do Th quen người phụ nữ khác, không chung thủy với H; bà Nên thì trình bày mâu thuẫn vợ chồng là do H không chung thủy, lấy tài sản đem cho người đàn ông khác, anh Th tha thứ nhưng chị H không sửa đổi, cả hai đã quyết định chia tay, ly thân từ tháng 7/2020 đến nay. Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Lý Bảo Ng, sinh ngày 18/7/2010 do chị H đang nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay.

Tòa án thu thập được ý kiến của cháu Huỳnh Lý Bảo Ng thể hiện từ lúc anh Th, chị H ly thân đến nay, cháu sống với chị H và bà ngoại, được học hành đầy đủ, nguyện vọng của cháu là được sống với chị H.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

Về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham dự phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Qua đó, cho thấy bị đơn đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Quan điểm giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Anh Th chị Hòa có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn do chị H lấy tài sản cho người khác và ngoại tình có hứa thay đổi nhưng vẫn không sửa đổi. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đã ly thân không thể hàn gắn, nên anh Th yêu cầu xin ly hôn với chị H, cho thấy hôn nhân của anh chị mâu thuẫn trầm trọng, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Th được ly hôn chị Hòa. Về con chung: từ khi ly thân đến nay cháu Huỳnh Lý Bảo Ng, sinh ngày 18/7/2010 do chị H đang nuôi dưỡng, được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của cháu, cần giao cháu Ng cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con. Chia tài sản và nợ chung không có, không xem xét; về án phí, anh Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện bị đơn về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và bị đơn có nơi cư trú tại thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết vụ án dân sự về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, nuôi con khi ly hônlà đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về yêu cầu ly hôn: Mối quan hệ hôn nhân giữa anh Th và chị H được xác lập trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy, cuộc sống hôn nhân vợ chồng nếu muốn có được hạnh phúc dài lâu và đạt được mục đích thì vợ chồng phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, phải biết thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau. Tòa án đã triệu tập chị H để tham gia hòa giải 02 lần và trong suốt quá trình giải quyết vụ án chị H đều vắng mặt, mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ sự không chung thủy và đã có thời gian ly thân kéo dài không hàn gắn được, tại bản tự khai anh Th cương quyết yêu cầu ly hôn với chị H, nên có căn cứ xác định anh Th và chị H không còn quan tâm đối với mối quan hệ hôn nhân này, nếu tiếp tục duy trì thì sẽ không đảm bảo hạnh phúc nên cần chấp nhận cho anh Th được ly hôn với chị H là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:

Quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên Huỳnh Lý Bảo Ng, sinh ngày 18/7/2010, do chị Hòa đang nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Anh Th đồng ý tiếp tục giao cháu Ng cho chị H nuôi dưỡng, không cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Cháu Ng hiện đang sống chung chị H, được chị và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Tại biên bản ghi nhận ý kiến, cháu Ng thể hiện nguyện vọng được sống với chị H. Để đảm bảo môi trường phát triển của con được ổn định, thuận lợi trong việc học tập, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục giao cháu Ng cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Huỳnh Phước Th không phải cấp dưỡng cho con. Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[3.3] Về tài sản chung: Anh Th xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Về nợ chung: Ghi nhận anh Th xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Huỳnh Phước Th phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Lý Cẩm Hòa không phải chịu án phí hôn nhân gia đình.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228; Điều 238, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Phước Th.

1. Về hôn nhân: anh Huỳnh Phước Th được ly hôn với chị Lý Cẩm H.

2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Lý Bảo Ng cho chị Lý Cẩm H tiếp tục nuôi dưỡng đến thành niên và tự lập được, anh Huỳnh Phước Th không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị H cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Nếu anh Th lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Th.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Ghi nhận anh Th xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Anh Huỳnh Phước Th phải chịu 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0004179 ngày 02/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân. Chị Lý Cẩm H không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về