Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2021/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 4 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 489/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 558/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Hoàng N, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại: Thôn C, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, trú tại: Thôn M, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 3 năm 2021 và các bản tự khai của nguyên đơn chị Lê Hoàng N trình bày:

Chị N xây dựng hạnh phúc với anh Phạm Văn T trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 13 tháng 13 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ anh T ở thôn M, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống đến tháng 10 năm 2020 vợ chồng xảy mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cách sống không phù hợp nhau, chị N nuôi con nhỏ, không đi làm, kinh tế khó khăn, anh T không tôn trọng chị và gia đình chị, anh thường xúc phạm, chửi đánh chị và đuổi chị ra khỏi nhà, chị kiên nhẫn chịu đựng vì con còn nhỏ nhưng anh T sống không có tình cảm vợ chồng nên chị đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn C, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng ở từ tháng 02 năm 2021 và sống ly thân với anh T từ đó đến nay. Chị N xét thấy không còn tình cảm vợ chồng, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Văn T. Về con chung: Chị N và anh T có 01 con chung là Phạm Khánh L, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2019. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn T có lời khai thể hiện: Anh nhất trí lời khai của chị N về thời gian và điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, chị N tính tình còn trẻ con, hỗn láo, không tôn trọng anh, vợ chồng cãi vã nhau, chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, anh và gia đình sang nói chuyện, tìm chị N nhưng chị N không về đoàn tụ với anh. Chị N xin ly hôn anh, anh T vẫn còn tình cảm với chị N, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng anh về đoàn tụ với nhau. Về con chung: Anh T nhất trí vợ chồng có 01 con chung, họ, tên, tuổi con như chị N trình bày, anh T xin đoàn tụ để vợ chồng cùng nhau nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Lê Hoàng N đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn anh Phạm Văn T vắng mặt tại phiên tòa là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 203; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 8 Điều 26 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử cho chị Lê Hoàng N được ly hôn anh Phạm Văn T; về con chung: Giao con Phạm Khánh L, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2019 cho chị N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T; về tài sản chung: Chị N không yêu cầu giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Chị Lê Hoàng N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Lê Hoàng N có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con đối với anh Phạm Văn T. Anh T có nơi cư trú tại thôn M, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.

[2] Nguyên đơn chị Lê Hoàng N vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Phạm Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Lê Hoàng N và anh Phạm Văn T.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Hoàng N và anh Phạm Văn T xây dựng hạnh phúc với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày13 tháng 3 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng với bố mẹ anh T tại thôn M, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống chị N và anh T xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cách sống không phù hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, nhiều lần vợ chồng cãi vã, xô xát, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Chị N đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn C, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng từ tháng 02 năm 2021 và sống ly thân với anh T từ đó đến nay. Chị N xin ly hôn anh T, anh T xin đoàn tụ nhưng anh không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa anh T đều vắng mặt chứng tỏ anh T từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật bảo vệ. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị N và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N xin ly hôn anh T là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị N và anh T có 01 con chung là Phạm Khánh L, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2019. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào tài liệu xác minh về điều kiện hiện nay của chị N có công việc, có thu nhập, có nơi ở ổn định cùng với bố mẹ chị, cháu Phạm Khánh L dưới 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc của người mẹ. Căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cho chị N được nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T.

[5] Về tài sản chung: Chị Lê Hoàng N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lê Hoàng N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Lê Hoàng N được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về con chung: Giao con Phạm Khánh L, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2019 cho chị Lê Hoàng N nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Phạm Văn T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Hoàng N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Lê Hoàng N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011739 ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Hoàng N đã nộp đủ án phí.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Lê Hoàng N và anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về