TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 44/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 85/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 về việc Ly hôn, tranh chấp về con chung. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022, quyết định hoãn phiên tòa số 31/QĐ-HPT ngày 08/6/2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1981 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn B, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Anh Lý Văn V, sinh năm 1978 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn B, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày: Chị và anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Th (nay là xã P), huyện S, tỉnh Bắc Giang vào ngày 1 14/3/2004, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, cưới xong chị về nhà anh V làm dâu ngay, vợ chồng chung sống tại Thôn B, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Ban đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Đến đầu năm 2015 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, hai vợ chồng không có tiếng nói chung, không bảo ban trong việc cùng nhau phát triển kinh tế, anh Vuống rượu vào đánh vợ con. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lý Văn V; Về con chung: Chị và anh Vcó 03 con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004, Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015. Nay ly hôn, chị có nguyện vọng xin được nuôi cả 03 con chung, chị không yêu cầu anh Vcấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 05/5/2022 anh Lý Văn V trình bày: anh Và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tnay là xã P, huyện S, tỉnh Bắc Giang vào ngày 14/3/2004, sau khi kết hôn chị H về nhà anh làm dâu ngay và chung sống cùng gia đình anh. Vợ chồng chung sống ban đầu hòa thuận, hạnh phúc. Đến tháng 4 /2021 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên đánh cãi chửi nhau, mặc dù được gia đình và chính quyền địa phường hòa giải nhưng không thành, khoảng tháng 12 năm 2021 anh Vsay rượu có gõ vào đầu chi Hảo, sau đó chị H bỏ về nhà mẹ đẻ. Tuy nhiên anh Vxác định vẫn còn tình cảm với chị H mong muốn chị H suy nghĩ lại quay về chung sống cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình nên anh không nhất trí ly hôn với chị H; Về con chung: Anh và chị H có 03 con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004, Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015. Nếu vợ chồng phải ly hôn anh có nguyện vọng nuôi cháu Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015, để chị H nuôi cháu Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con với anh với mức là 1.000.000 đồng/02 con/tháng. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh và chị H tự thỏa thuận, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/4/2022 cháu Lý Thu L trình bày: Cháu là biết bố mẹ cháu đang làm thủ tục ly hôn tại Tòa án, nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng ở với mẹ là Hoàng Thị H.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/4/2022 cháu Lý Thị U trình bày: Cháu là biết bố mẹ cháu đang làm thủ tục ly hôn tại Tòa án, nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng ở với mẹ là Hoàng Thị H.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Hoàng Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lý Thị V; Về con chung chị H có nguyện vọng tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004, chịu nhất trí để anh Vnuôi cháu Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015, chị H nhất trí cấp dưỡng nuôi con chung với anh Vlà 1.000.000 đồng/02 con/tháng (mỗi con chung là 500.000 đồng/tháng).
Tại phiên toà anh Lý Văn V trình bày: Về quan hệ hôn nhân anh Vxác nhận vợ chồng có mâu thuẫn về công việc cũng như trong cuộc sống giữa anh và chị Hoàng Thị H có xảy ra việc đánh cãi, chửi nhau, tuy nhiên anh vẫn muốn chị H quay lại với nhau để nuôi dạy con cái, nếu chị H kiên quyết ly hôn thì tùy chị H, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật; Về con chung: Anh và chị H có 03 con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004; Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015. Nếu vợ chồng phải ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi cháu Lý Thu L và Lý Duy H, để chị H nuôi cháu Lý Thị U. Anh yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con với anh 1.000.000 đồng/02 con/tháng (mỗi con chung là 500.000 đồng/tháng); Về tài sản chung, công nợ chung: Anh và chị H tự thỏa thuận, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự. Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H: Cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Lý Văn V.
2. Về con chung: Giao anh Lý Văn V nuôi con chung là Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015; Giao cho chị Hoàng Thị H nuôi con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004. Chị Hoàng Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với anh Vmỗi tháng cho một con chung là 500.000 đồng (02 con chung là 1.000.000 đồng/tháng), kể từ tháng 8 năm 2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn anh Vinh, chị H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở anh Vinh, chị H thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (trong đó 300.000 đồng án phí việc ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con), nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang theo Biên lai thu số: 0010648 ngày 15 tháng 3 năm 2022. Chị H còn phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kêt quả tranh tụng tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Hoàng Thị H khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết ly hôn với anh Lý Văn V. Hiện nay anh Vcó hộ khẩu thường trú tại tổ Thôn B, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ quy định tại quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Lý Văn V kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T(nay là xã Phúc Sơn), huyện S, tỉnh Bắc Giang được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 14/3/2004. Do vậy xác định đây là hôn nhân hợp pháp.
Theo trình bày của chị Hoàng Thị H vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, hai vợ chồng không có tiếng nói chung, không bảo ban trong việc cùng nhau phát triển kinh tế, anh Vuống rượu, còn bạo lực gia đình. Anh Hoàng Văn Vinh cũng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn do không bảo ban trong công việc, có đánh cãi chửi nhau, vợ chồng hiện đang ly thân với nhau, mặc dù hai bên gia đình khuyên bảo nhưng không thành, tuy nhiên anh không đồng ý ly hôn với chị H, mong muốn chị H về đoàn tụ gia đình nuôi dạy con cái. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Vmâu thuẫn là có thật, việc vợ chồng không có cùng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra việc cãi vã, chửi nhau hiện đã ly thân với nhau mặc dù hai bên gia đình khuyên bảo vợ chồng về đoàn tụ nhưng không thành, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Hoàng Thị H, cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Lý Văn V.
[2.2] Về con chung: Chị Hoàng Thị H và anh Lý Văn V có 03 con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004, Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015. Tại phiên tòa anh Vinh, chị H đều thống nhất thỏa thuận để anh Vnuôi cả 02 cháu Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 04/7/2015, để chị H nuôi cháu Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với anh Vcho mỗi cháu là 500.000 đồng/tháng (02 cháu là 1000.000 đồng/tháng) cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; Hội đồng xét xử xét thấy hiện 02 cháu Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015 đang ở với anh Vinh, cháu Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004 đang ở với chị H phát triển bình thường, anh Vchị H đều thống nhất việc nuôi con chung, nên cần giao cho anh Vnuôi cả 02 con chung là Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015; Giao cho chị H nuôi con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004 là phù hợp. Chị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với anh Vcho mỗi cháu là 500.000 đồng/tháng (02 cháu là 1000.000 đồng/tháng), kể từ tháng 8 năm 2022 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Hoàng Thị H và anh Lý Văn V không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng là tiền tạm ứng án phí mà chị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn. Chị H còn phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H: Cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Lý Văn V.
2. Về con chung: Giao anh Lý Văn V nuôi con chung là Lý Thu L, sinh ngày 16/02/2012 và Lý Duy H, sinh ngày 17/8/2015; Giao cho chị Hoàng Thị H nuôi con chung là Lý Thị U, sinh ngày 07/8/2004. Chị Hoàng Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với anh Vmỗi tháng cho một con chung là 500.000 đồng (02 con chung là 1.000.000 đồng/tháng), kể từ tháng 8 năm 2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn anh Vinh, chị H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở anh Vinh, chị H thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (trong đó 300.000 đồng án phí việc ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con), nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang theo Biên lai thu số: 0010648 ngày 15 tháng 3 năm 2022. Chị H còn phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 44/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 44/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về