Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 43/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1336/2023/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST – HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2024/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.

2. Bị đơn: Ông Lê Trọng T1, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

Tạm trú: Ấp D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.

(Bà T xin vắng mặt, ông T1 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/11/2023, trong quá trình giải quyết vu án, nguyên đơn là bà Nguyễn Ngọc T trình bày: Bà và ông Lê Trọng T1 là vợ chồng cưới nhau từ năm 2016, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh L cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/5/2016. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến thời gian gần đây vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống, cải vã, không tìm được tiếng nói chung, chung sống không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nên bà và ông T1 đã ly thân nhau. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Trọng T1.

Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, bà và ông T1 có 02 con chung tên Lê Trọng Minh Đ, sinh ngày 07/6/2018 và Lê Trọng Gia P, sinh ngày 07/7/2020, hiện con đang sống với bà T. Khi ly hôn, bà T xin được trực tiếp nuôi dưỡng, bà không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Bà T xác định bà và ông T1 tự thỏa, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà T xác định bà và ông T1 không có nợ ai.

Bị đơn là ông Lê Trọng T1 được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện việc bà T yêu cầu được ly hôn với ông T1 nhưng ông T1 vẫn vắng mặt không có văn bản ý kiến trình bày đối với các yêu cầu khởi kiện của bà T.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Ngọc T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lê Trọng T1. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; Ông T1 hiện đang cư trú tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh L. Thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ, tinh L theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Nguyên đơn là bà Nguyễn Ngọc T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án, nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

[3] Nguyên đơn là bà Nguyễn Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và bị đơn là ông Lê Trọng T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Ngọc T:

[4.1] Về hôn nhân: Xét thấy, bà Nguyễn Ngọc T và ông Lê Trọng T1 tự nguyện sống chung vaÌ đaÞ đăng kyì kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 61/2016 đăng kyì ngaÌy 12/5/2016 do Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh L cấp, nên xác định hôn nhân giữa bà T và ông T1 là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Xét thấy, quá trình chung sống giữa bà T và ông T1 đã phát sinh mâu thuẫn với những nguyên nhân do bà T trình bày. Ông T1 đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện việc bà T yêu cầu được ly hôn với ông T1 tại Tòa án, nhưng ông T1 vẫn không có ý kiến, luôn vắng mặt, không thể hiện ý chí muốn đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ mẫu thuẫn tình cảm giữa bà T và ông T1 là có thật, quan hệ hôn nhân của hai bên đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy, việc bà T cương quyết ly hôn với ông T1 là có cơ sở, nên chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông T1 là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về nuôi con chung: Theo quy định tại các Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “...Vợ, chồng được quyền thỏa thuận người trực tiếp nuôi con...; Tại thời điểm xét xử, cháu Lê Trọng Minh Đ, sinh ngày 07/6/2018 và Lê Trọng Gia P, sinh ngày 07/7/2020 hiện tại do bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà T xin được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung. Đối với ông T1, đã được thông báo về yêu cầu nuôi con chung của bà T nhưng ông T1 không có văn bản phản hồi ý kiến gửi cho Tòa án xem xét. Xét thấy, từ khi bà T và ông T1 xa nhau đến nay, bà T xác định cháu Đ và cháu P do bà T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của các con.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy trên cơ sở đề nghị của bà T, vì lợi ích của con chung, đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống, trong học tập, nên cần giao cháu Đ và cháu P cho bà T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và ông T1 không có ý kiến phản hồi về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4.3] Về chia tài sản chung: Do ông T1 cố tình vắng mặt, không có ý kiến trình bày. Ghi nhận bà T xác định tự thỏa thuận tài sản chung với ông T1 nên Tòa án không đề cập giải quyết. Nếu sau này, các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[4.4] Về nợ chung: Do ông T1 cố tình vắng mặt, không có ý kiến trình bày. Ghi nhận bà T xác định không có nợ chung nên Tòa án không đề cập giải quyết, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[5] Về án phí: Buộc bà Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, Điều 179, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271, Điều 273 và Điều 483 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Ngọc T được ly hôn với ông Lê Trọng T1.

2. Về nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Ngọc T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên là Lê Trọng Minh Đ, sinh ngày 07/6/2018 và Lê Trọng Gia P, sinh ngày 07/7/2020. Ông T1 không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không có yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì người trực tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về chia tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nộp ngân sách Nhà Nước, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án sô 0005483 ngày 29/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tinh L. Bà T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông T1 không phải chịu án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về