Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong các ngày 28 tháng 7 năm 2022 và 17 tháng 8 năm 2022, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2022/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2022/QĐST- HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Tạ Thị Thu H, sinh năm 1989.

Trú tại: thôn T, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Vũ Văn C, sinh năm 1986.

Trú tại: thôn T, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 4 năm 2022 và bản tự khai ngày 14 tháng 6 năm 2022, nguyên đơn Tạ Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Vũ Văn C tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại thôn T, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung; không còn quan tâm đến nhau. Nay chị thấy tình cảm giữa hai người không còn, cuộc sống chung vợ chồng không còn hạnh phúc, nên làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 01 con là Vũ Tuệ L, sinh ngày 11/12/2013. Sau khi ly hôn, chị đề nghị trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung; anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: không có.

Về công nợ chung: không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Vũ Văn C không thể hiện ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của chị Tạ Thị Thu H; không đến phiên tòa để làm việc mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các tài liệu tố tụng theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản xác minh tại gia đình ngày 29/6/2022 ông Trần Quốc T (trưởng thôn T, xã B) và ông Vũ Văn H (bố đẻ của anh Vũ Văn C) cho biết:

Anh Vũ Văn C và chị Tạ Thị Thu H tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại thôn T, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống anh chị có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung; không còn quan tâm đến nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C làm ăn ở xa nhà, không thường xuyên về nhà nên tình cảm vợ chồng không còn. Anh chị có 01 con là Vũ Tuệ L, sinh ngày 11/12/2013. Hiện nay, cháu Tuệ L sống cùng mẹ. Anh C thỉnh thoảng về nhà thăm bố mẹ và thăm con. Về tài sản chung và các khoản nợ chung của anh C, chị H, ông H không nắm rõ.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại Điều 196, 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Tạ Thị Thu H về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa:

[1] Về quan hệ tranh chấp:

Chị Tạ Thị Thu H có đơn khởi kiện đề nghị được ly hôn với anh Vũ Văn C. Đây là vụ án “Tranh chấp về hôn nhân gia đình” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải theo đúng trình tự và thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Trong quá trình tống đạt các tài liệu, quyết định tố tụng của Tòa án cho các đương sự theo đúng trình tự thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, chị Tạ Thị Thu H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Vũ Văn C vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[3] Về tình cảm: Anh Vũ Văn C và chị Tạ Thị Thu H tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã, thị xã, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại thôn T, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống anh chị có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung; anh Cường đi làm xa nhà, không thường xuyên về nhà nên vợ chồng không còn tình cảm dành cho nhau. Như vậy, thực tế cuộc hôn nhân của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng mà không thể hàn gắn được, mục đích chung sống không đạt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, yêu cầu của chị Tạ Thị Thu H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn C có căn cứ pháp luật, cần chấp nhận.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, anh C chị H có 01 con là Vũ Tuệ L, sinh ngày 11/12/2013. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Tạ Thị Thu H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Vũ Tuệ L mong muốn được ở cùng chị Tạ Thị Thu H nếu bố mẹ ly hôn. Hội đồng xét xử thấy hiện tại, anh Vũ Văn C thường xuyên vắng mặt tại gia đình, không ổn định về chỗ ở nên không có điều kiện tốt nhất để trực tiếp nuôi con chung. Mặt khác, nguyện vọng của chị Tạ Thị Thu H phù hợp với nguyện vọng của cháu Vũ Tuệ L, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H về việc trực tiếp nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và các khoản nợ: anh chị không có khoản nợ chung. Tài sản chung của vợ chồng anh chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: chị Tạ Thị Thu H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; khoản 1, 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tạ Thị Thu H về việc ly hôn.

1. Về tình cảm: chị Tạ Thị Thu H được ly hôn với anh Vũ Văn C.

2. Về con chung:

- Giao cho chị Tạ Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Vũ Tuệ L, sinh ngày 11/12/2013 kể từ tháng 8 năm 2022 đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi);

- Anh Vũ Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con chung;

- Anh Vũ Văn C có quyền thăm nom cháu Vũ Tuệ L theo quy định của pháp luật; chị Tạ Thị Thu H cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Vũ Văn C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Vũ Tuệ L.

3. Về án phí: chị Tạ Thị Thu H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (chị Tạ Thị Thu H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009396, ngày 15/4/2022 của chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều);

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về