Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1425/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Mỹ Ng – Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn xx, B1, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Công L − Sinh năm: 1994 Địa chỉ: yy P1, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hồ Thị Mỹ Ng trình bày:

Bà và ông Lê Công L tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn năm 2016 tại UBND phường P, thành phố N.

Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, giữa bà và ông L phát sinh nhiều mâu thuẫn do không phù hợp về tính tình, quan điểm sống, ông L không quan tâm đến vợ con, lười biếng, ham chơi, không lo làm ăn nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, vợ chồng cũng vì vậy mà mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng hơn. Để hàn gắn cuộc sống gia đình, bà cũng đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông L không thay đổi. Đến đầu năm 2020, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà và con về Đắk Lắk sinh sống cùng cha mẹ, vợ chồng bà sống ly thân từ đó đến nay. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông L.

Về con chung: Bà và ông L có 1 con chung là Lê Hồ Kim Th, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2016, hiện đang ở với bà. Bà yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung: Không có.

Bị đơn Lê Công L trình bày: Ông và bà Hồ Thị Mỹ Ng tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P năm 2016. Trong quá trình chung sống ông vẫn quan tâm, chăm lo đến vợ con. Tuy nhiên, từ khoảng cuối năm 2019 đến đầu năm 2020, do tình hình dịch bệnh covid-19, ông bị thất nghiệp, từ đó vợ chồng bắt đầu mâu thuẫn về kinh tế. Đến cuối tháng 2 năm 2020, sau khi vợ chồng kình cãi nhau chuyện tiền bạc thì bà Ng đưa con về nhà ngoại ở Đắk Lắk sinh sống từ đó đến nay. Ông đã xin lỗi và khuyên bà Ng trở về nhưng bà Ng không đồng ý. Nay bà Ng yêu cầu ly hôn, ông không đồng ý vì ông còn thương vợ con. Nếu bà Ng và con muốn ở với nhà ngoại thì ông cũng đồng ý, ông không ép buộc nhưng ông không đồng ý ly hôn, mong Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Ông và bà Ng có 01 con chung là Lê Hồ Kim Th, sinh ngày 13/11/2016, hiện đang ở cùng với bà Ng. Trường hợp nếu phải ly hôn, ông đồng ý giao con chung cho bà Ng trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Ng và ông L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Hồ Thị Mỹ Ng được ly hôn với ông Lê Công L; về con chung: giao cháu Lê Hồ Kim Th, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2016 cho bà Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, ông L không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: bà Ng và ông L xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Hồ Thị Mỹ Ng khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu được nuôi con nên quan hệ pháp L tranh chấp được xác định là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Lê Công L có địa chỉ tại yy P1, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị Mỹ Ng và ông Lê Công L tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường P, thành phố N cấp giấy chứng nhận kết hôn số 49 ngày 17 tháng 6 năm 2016 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, giữa bà Ng và ông L phát sinh mâu thuẫn do có sự khác biệt lớn về tính tình, vợ chồng không thấu hiểu, cảm thông cho nhau và không tìm được tiếng nói chung về công việc và vấn đề kinh tế gia đình, từ đó làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã sống ly thân khoảng một năm nay. Bà Ng xác định không còn tình cảm với ông L nên yêu cầu ly hôn với ông L. Bị đơn ông Lê Công L mặc dù có ý kiến không đồng ý ly hôn, mong Tòa án hòa giải cho vợ chồng con cái đoàn tụ nhưng khi được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia các phiên họp hòa giải, phiên tòa thì vắng mặt không có lý do. Điều này chứng tỏ ông L có thái độ bỏ mặc, không còn thiện chí muốn hàn gắn, đoàn tụ gia đình với bà Ng. Như vậy có thể thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Ng và ông L đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững không đạt được; yêu cầu xin ly hôn của bà Ng là có căn cứ, phù hợp với khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà Ng và ông L có 01 con chung là Lê Hồ Kim Th, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2016. Xét thấy cháu Th là con gái, còn nhỏ tuổi, cần có sự chăm sóc của người mẹ và hiện đang sinh sống ổn định với bà Ng; ông L cũng đồng ý giao con chung cho bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Vì vậy, yêu cầu của bà Ng về việc được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Ng không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Hồ Thị Mỹ Ng và ông Lê Công L xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Hồ Thị Mỹ Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp L.

[6] Xét quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 271 và Điều 273 của Bộ L tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của L Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị Mỹ Ng được ly hôn ông Lê Công L.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Hồ Kim Th, sinh ngày 13 tháng 11 năm 2016 cho bà Hồ Thị Mỹ Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông Lê Công L không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Ng không yêu cầu.

Ông L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi và không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng.

Vì quyền lợi của con, khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Hồ Thị Mỹ Ng và ông Lê Công L xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Hồ Thị Mỹ Ng phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Ng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0017925 ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Ng đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về