Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 108/2021/TLST-HNGĐ ngày 12/5/2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 30/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐ-HPT ngày 17/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị S, sinh năm 1987 ĐKTT: Bản L, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B Địa chỉ hiện nay: Bản X xã Nà T, Thành phố Điện Biên Ph, tỉnh Điện B, có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Lường Văn Đ, sinh năm 1982 Địa chỉ: Bản L, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07/5/2021, bản tự khai nguyên đơn chị Lò Thị S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lường Văn Đ chung sống như vợ chồng từ năm 2004 nhưng đến ngày 11/6/2010 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, hai bên không có tiếng nói chung, cuộc sống của anh chị luôn xảy ra cãi vã. Hôn nhân không có hạnh phúc, chị Son đã về nhà mẹ đẻ tại bản X, xã Nà T, Thành phố Điện Biên Ph sinh sống từ 09/10/2020. Từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai nữa, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Đ.

Về quan hệ con chung: Anh chị có 03 con chung: Cháu thứ nhất là Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013; cháu thứ 2 là Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007; cháu thứ 3 là Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu H và cháu H đến khi thành niên, nguyện vọng chị được giao cháu Tr cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện nuôi con: Chị có nơi cư trú ổn định vừa làm ruộng và làm thuê khoảng 5 triệu đồng/1 tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án ngày 12/5/2021 theo Thông báo về việc thụ lý vụ án số 108/TB-TLVA ngày 12/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo. Tại bản tự khai ngày 26/5/2021, anh Đ nhất trí với chị S về quan hệ hôn nhân có mâu thuẫn khiến vợ chồng không còn tình cảm, anh và chị S đã sống ly thân từ 09/10/2020 cho đến nay như lời trình bày của chị S, anh nhất trí ly hôn

Về con chung: Anh nhất trí như lời trình bày của chị S về quan hệ con chung: Anh chị có 3 con chung: Cháu thứ nhất là Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013; cháu thứ 2 là Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007; cháu thứ 3 là Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004. Hiện cháu H đang đi làm ăn ở Hải Ph, còn cháu H và cháu Tr đang ở với anh. Anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Tr và cháu H đến khi thành niên, giao cháu H cho chị S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về điều kiện nuôi con: Anh có thu nhập từ làm ruộng và làm thuê thu nhập mỗi tháng khoảng 7 đến 8 triệu đồng đủ điều kiện nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Nhất trí như ý kiến của chị S, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 16/6/2021, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo Thông báo số 68/TB -TA ngày 31/5/2021 song anh Lường Văn Đ vắng mặt không có lý do. Tòa án đã lập biên bản về sự vắng mặt của anh Đón và tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và thông báo kết quả cho anh Đ. Ngày 16/6/2021, chị S có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nữa, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/8/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G song nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt không có lý do, Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định. Ngày 06/9/2021, Tòa án đã mở lại phiên tòa theo Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2021/QĐST-DS ngày 17/8/2021. Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 23/8/2021, chị S vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện về quan hệ hôn nhân và quan hệ tài sản. Về phần con chung chị xin thay đổi về phần giao con chung: Đề nghị được thay đổi giao cháu Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013 và cháu Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007 cho anh Lường Văn Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và giao cháu Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004 cho chị Lò Thị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Lường Văn Đ có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 22/8/2021, anh giữ nguyên quan điểm như bản tự khai ngày 26/5/2021.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận cho chị Lò Thị S được ly hôn với anh Lường Văn Đ.

Về con chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao cháu Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013 và cháu Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007 cho anh Lường Văn Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và giao cháu Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004 cho chị Lò Thị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Các bên đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị S là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị S.

Về kiến nghị: Không 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần G theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị S và anh Lường Văn Đ kết hôn ngày 11/6/2010 đến thời điểm giải quyết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 17/8/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song nguyên đơn, bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

[4]. Tại phiên tòa ngày 06/9/2021, chị Lò Thị S và anh Lường Văn Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[5]. Về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện: Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị S xin thay đổi yêu cầu về con chung: Chị nhất trí ý kiến của anh Đ về việc giao con chung. HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự: Xét thấy yêu cầu của chị S không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên chấp nhận.

[6] Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh Đ lấy nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai và ý kiến thừa nhận của đương sự và quá trình Tòa án thu thập chứng cứ theo biên bản xác minh trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con tại Bản L, xã Quài T, huyện Tuần G và bản X, xã Nà T, Thành phố Điện Biên Ph đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh chị tính tình không hợp, hôn nhân không có hạnh phúc, anh chị đã ly thân từ 09/10/2020 cho đến nay, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì.

Từ những phân tích và nhận định trên đủ cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị Lò Thị S và anh Lường Văn Đ đã trầm trọng. Mục đích xây dựng cuộc sống hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị S xin ly hôn với anh Đ, anh Đ đã nhất trí cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5]. Xét nguyệt vọng về con chung của các bên: HĐXX căn cứ nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng con chung của chị S và anh Đ, anh chị đều có thu nhập và nơi cư trú ổn định theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con tại Bản L, xã Quài T, huyện Tuần G và tại bản X, xã Nà T, thành phố Điện Biên Ph có xác nhận của chính quyền địa phương. Căn cứ nguyện vọng của cháu Tr và cháu H đều xin được ở với bố, cháu H xin được ở với mẹ, phù hợp với nguyện vọng của chị S và anh Đ đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình: Quyết định giao cháu Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013 và cháu Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007 cho anh Lường Văn Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và giao cháu Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004 cho chị Lò Thi S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[6]. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Chấp nhận ý kiến các bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7]Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị S là người dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị S.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khon 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 233; Điều 235; khoản 1 Điều 244; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị S được ly hôn với bị đơn anh Lường Văn Đ

2. Về con chung: Giao cháu Lường Văn Tr, sinh ngày 06/4/2013 và cháu Lường Thị H, sinh ngày 04/9/2007 cho anh Lường Văn Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và giao cháu Lường Thị H, sinh ngày 02/5/2004 cho chị Lò Thị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về:

Chấp nhận việc các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí DSST: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí DSST cho chị Lò Thị S

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị S, anh Lường Văn Đ được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về