Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 191/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phước Thanh Q, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn ly hôn ngày 02/11/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Q bắt đầu chung sống từ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống không phù hợp; anh Q đam mê cờ bạc và có tình cảm với người phụ nữ khác. Chị đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh Q vẫn không thay đổi nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2020 đến nay. Nhận thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Q.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 04/9/2008 và Nguyễn Phước Thái T, sinh ngày 08/8/2010; hiện cả 02 con đang sống với anh Q. Ly hôn, chị đồng ý giao cả 02 con cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng; chị không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.

* Bị đơn anh Nguyễn Phước Thanh Q đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Q không đến Tòa án, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn.

* Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Quá trình thụ lý và xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên không kiến nghị gì về tố tụng.

Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, tình cảm không thể hàn gắn được; đối với con chung hiện đang sống với anh Q và các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với cha nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị H yêu cầu ly hôn với anh Q và giao con chung cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng nên đây là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Q là bị đơn có nơi cư trú tại ấp B, xã T, huyện G nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Chị H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; anh Q đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị H, anh Q.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Q chung sống trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 ngày 11/9/2008 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Chị H trình bày trong quá trình chung sống, giữa chị và anh Q xảy ra mâu thuẫn kéo dài không tự hàn gắn được. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ của chị H giao nộp cho anh Q; nội dung thông báo về việc thụ lý vụ án có nêu rõ yêu cầu được ly hôn của chị H nhưng anh Q không thể hiện ý kiến phản đối đối với yêu cầu của chị H. Do vậy, cần xác định tình trạng mâu thuẫn giữa chị H và anh Q đã trầm trọng, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con:

- Về nuôi con chung: Chị H và anh Q có 02 con chung chưa thành niên tên Nguyễn Thị Trúc Q và Nguyễn Phước Thái T. Chị H đồng ý giao cả 02 con cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; …”.

Quá trình giải quyết vụ án dù anh Q vắng mặt, không có sự thỏa thuận với chị H về người trực tiếp nuôi con chung. Tuy nhiên, hiện các cháu Q, T đang sống với anh Q và các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với cha. Để tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo sự phát triển bình thường cho các cháu nên Hội đồng xét xử giao cho anh Q được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu sau này anh Q có yêu cầu về con chung sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H, anh Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.

[5] Về chia tài sản, nợ chung: Chị H, anh Q không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[7] Về ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Phước Thanh Q.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 04/9/2008 và Nguyễn Phước Thái T, sinh ngày 08/8/2010 cho anh Nguyễn Phước Thanh Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Tạm thời chị Nguyễn Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005813 ngày 23/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây nên chị H đã nộp xong án phí.

Anh Nguyễn Phước Thanh Q không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai bản án, chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Phước Thanh Q được quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về