Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 36/2023/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 5 năm 2023 tại phòng xử án, Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 72/2023/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/QĐXX- ST ngày 03 tháng 4 năm 2023 và quyết định hoãn phiên toà số 18/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà H A Êban, sinh năm 1986- Có đơn xin xét xử vắng mặt Nơi ở hiện nay: Buôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Ông Y Đ Niêl Niê, sinh năm 1983- Vắng mặt Nơi ĐKHKTT: Buôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nơi ở hiện nay: Buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không tiến hành hòa giải được và đơn xin xét xử vắng mặt nguyên đơn bà H A Êban trình bày:

Bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn tại xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 02/11/2010. Sau khi về chung sống thì vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do cuộc sống chung của vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung và ảnh hưởng nghiêm trọng chuyện kinh tế gia đình, ông Y Đ Niêl Niê thường xuyên uống rượu về đánh đập vợ con và không chịu đi làm, nên hiện nay không còn tình cảm yêu thương, chăm sóc nhau nữa, vợ chồng đã sống lý thân từ đầu năm 2022 cho đến nay.

Xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay bà H A Êban xin được ly hôn với ông Y Đ Niêl Niê, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung: cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008. Hiện nay cháu đang ở với bà H A Êban, Sau khi ly hôn bà H A Êban xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu Y Đ Êban cho tới lúc cháu tròn 18 tuổi và không yêu cầu ông Y Đ Niêl Niê cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Toà án giải quyết.

*Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Y Đ Niêl Niê không đến tòa làm việc, nên Tòa án không lấy được lời khai bị đơn ông Y Đ Niêl Niê.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

-Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thẩm phán chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, Đề nghị Hội đồng xét xử cho bà H A Êban được ly hôn với ông Y Đ Niêl Niê và Giao cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008 cho bà H A Êban trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi, Về tài sản chung và nợ chung: bà H A Êban không yêu cầu, nên đề nghị HĐXX không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà H A Êban đề ngày 22/02/2023, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS.

Về thẩm quyền: Tại thời điểm bà H A Êban làm đơn khởi kiện, bị đơn ông Y Đ Niêl Niê, cư trú tại, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Y Đ Niêl Niê. Tuy nhiên, ông Y Đ Niêl Niê không tham gia tố tụng cũng như không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hoà giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa lần thứ nhất ông Y Đ Niêl Niê vắng mặt, nên HĐXX đã hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho ông Y Đ Niêl Niê. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Y Đ Niêl Niê vắng mặt không có lý do, nguyên đơn bà H A Êban có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, HĐXX áp dụng Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện. Có đăng ký kết hôn ngày 02/11/2010 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung là cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống bất đồng nên đã sống ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay. Quá trình tham gia tố tụng bà H A Êban xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Ông Y Đ Niêl Niê không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình.

Kết quả xác minh, chính quyền địa phương cung cấp: bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê, sau khi đăng ký kết hôn thì ông Y Đ Niêl Niê về chung sống và nhập khẩu vào nhà bà H A Êban, tại Buôn P, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thời gian gần đây thì vợ chồng bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là ông Y Đ Niêl Niê thường xuyên uống rượu, say xỉn về chửi bới, gây sự với bà H A Êban, dẫn tới vợ chồng thường xuyên xô xát nhau, Ban tự quản Buôn cũng đã nhiều lần mời hai vợ chồng bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê lên hòa giải, nhưng không thành. Hiện nay, ông Y Đ Niêl Niê đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở tại Buôn K, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk sinh sống và hai vợ chồng đã sống ly thân. Nay bà H A Êban làm đơn xin ly hôn ông Y Đ Niêl Niê thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê đã đến mức trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2022 cho tới nay mà không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình, bà H A Êban xác định tình cảm không còn và kiên quyết xin ly hôn. Còn ông Y Đ Niêl Niê mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không lên tòa trình bày ý kiến.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện cho bà H A Êban được ly hôn với ông Y Đ Niêl Niê.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà H A Êban và ông Y Đ Niêl Niê có 01 con chung là cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008, hiện nay cháu đang do bà H A Êban chăm sóc, bà H A Êban thì có nguyện vọng sau khi ly hôn thì xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến lúc cháu trưởng thành và cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008 hiện nay đã trên 07 tuổi, cháu cũng có nguyện vọng ở với mẹ. Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, ông Y Đ Niêl Niê cũng không có mặt để xác định nguyện vọng của ông về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy nguyện vọng của bà H A Êban là chính đáng, đảm bảo cho sự phát triển của con chung, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008 cho bà H A Êban trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ tuổi trưởng thành. Ông Y Đ Niêl Niê được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H A Êban không yêu cầu ông Y Đ Niêl Niê cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà H A Êban không yêu cầu, nên HĐXX không đề cập xem xét.

[5] Về án phí: Bà H A Êban phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét thấy quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là phù hợp, HĐXX cần chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho bà H A Êban được ly hôn với ông Y Đ Niêl Niê.

Về con chung: Giao cháu Y Đ Êban; sinh ngày 08/09/2008 cho bà H A Êban trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu tròn 18 tuổi.

Ông Y Đ Niêl Niê được quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở. Tuy nhiên, ông Y Đ Niêl Niê không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H A Êban không yêu cầu ông Y Đ Niêl Niê cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: bà H A Êban không yêu cầu, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà H A Êban phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0016852 ngày 01/3/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

Nguyên đơn bà H A Êban, bị đơn ông Y Đ Niêl Niê được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về