Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TK, TỈNH HD

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện TK, tỉnh HD xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 180/2022/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2022 về việc:"Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Chị Nguyễn Thị D, sinh năm: 1993.

ĐKHKTT và trú tại: thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh, huyện TK, tỉnh HD. Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Đinh Văn H, sinh năm: 1988.

ĐKHKTT và trú tại: thôn Quan Lộc, xã Tiên Động, huyện TK, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày: Chị và anh Đinh Văn H được tự do tìm hiểu nhau 06 tháng thì tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Động, huyện TK, tỉnh HD vào ngày 16/11/2012. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại nhà của bố mẹ đẻ anh H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng gần 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng không cùng quan điểm sống và không thống nhất với nhau trong mọi việc. Anh H không tập trung kinh tế với chị. Trong cuộc sống vợ chồng, anh chị thiếu sự quan tâm, chia sẻ đối với nhau nên cuộc sống chung của anh chị không có hạnh phúc. Chị và gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H không thay đổi. Do không thể chịu đựng được cuộc sống chung như vậy nên tháng 3 năm 2014, chị đã về ở nhờ nhà bố mẹ đẻ chị tại thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh, huyện TK, tỉnh HD sinh sống. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay, mỗi người một nơi không còn quan tâm đến nhau nữa. Đến nay, chị nhận thấy vợ chồng không còn cơ hội để đoàn tụ và tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Gia đình và địa phương biết mâu thuẫn của vợ chồng chị, đã hòa giải cho anh chị nhưng không thành. Anh H cũng không quan tâm đến mẹ con chị và vợ chồng chị thực sự chấm dứt mối quan hệ vợ chồng từ năm 2016 đến nay. Anh H không về nhà chị và không đón chị về nhà anh H để đoàn tụ vợ chồng. Cuộc sống chung của anh chị không thể kéo dài tình trạng này và cả hai đều cảm thấy mệt mỏi, không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đinh Văn H để anh chị xây dựng cuộc sống mới ổn định, hạnh phúc hơn. Mẹ con chị có chỗ ở ổn định tại nhà bố mẹ đẻ chị và chị có mở cửa hàng bán tạp hóa tại nhà ở cùng với bố mẹ đẻ chị, thu nhập trung bình của chị được khoảng 7-8 triệu đồng/tháng nên đủ điều kiện nuôi dưỡng con tốt. Nay, chị vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H và giải quyết về quan hệ con chung của anh chị.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Đinh Văn H thông qua bố mẹ đẻ anh H là ông Đinh Văn H và bà Nguyễn Thị S. Ông bà xác định: anh H không có nhà nên ông bà nhận thay và đã thông báo lại các văn bản của Tòa án cho anh H đầy đủ nhưng do anh H đi làm xa, công việc bận nên anh H không thể có mặt tại Tòa án được, anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh, anh nhất trí ly hôn với chị D và đồng ý việc chị D nuôi dưỡng con chung đồng thời anh cũng đồng ý với việc chị D không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con. Theo ông H và bà S trình bày, chị D và anh H kết hôn với nhau vào ngày 16/11/2012, được đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Động, huyện TK. Sau khi cưới, anh chị chung sống tại nhà của ông bà. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được gần 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, không cùng quan điểm sống và không thống nhất được với nhau trong mọi việc. Vợ chồng không tập trung kinh tế, thiếu sự quan tâm, chia sẻ đối với nhau nên cuộc sống chung không hạnh phúc. Hai bên gia đình cũng đã nhiều lần khuyên nhủ, động viên nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Sau đó, chị D về nhà bố mẹ đẻ chị sinh sống từ tháng 3/2014 cho đến nay. Từ ngày chị D về nhà bố mẹ đẻ ở thì anh H cũng đi làm xa, thỉnh thoảng mới về thăm gia đình. Ông bà không rõ địa chỉ của anh H ở đâu. Ông bà có hỏi anh H nhưng anh không nói địa chỉ ở đâu và không cho ông bà biết anh ở đâu. Anh H vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú với ông bà tại địa chỉ này, anh vẫn thường xuyên gọi điện cho ông bà và ông bà vẫn thường xuyên liên lạc với anh H hàng ngày. Từ đó đến nay, vợ chồng chị D và anh H sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay, chị D xin ly hôn anh H thì ông bà cũng nhất trí đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn để sớm ổn định cuộc sống. Về con chung, vợ chồng chị D và anh H có một con chung. Nguyện vọng của chị D xin được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con thì ông bà cũng nhất trí. Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với vợ chồng ông bà thì anh chị không có.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/8/2022, ông Nguyễn Văn D, bố đẻ của chị D trình bày: Chị Nguyễn Thị D và anh Đinh Văn H kết hôn với nhau vào năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Động, huyện TK, tỉnh HD. Sau khi kết hôn, vợ chồng hạnh phúc được gần 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có cùng quan điểm sống và không thống nhất với nhau trong mọi việc, không tập trung kinh tế, thiếu sự quan tâm, chia sẻ đối với nhau nên cuộc sống chung của anh chị không có hạnh phúc. Gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ và hòa giải cho anh chị nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Tháng 3 năm 2014, chị D đã về ở nhờ nhà ông, vợ chồng ly thân từ đó. Nay, chị D xin ly hôn anh H quan điểm của gia đình ông mong muốn vợ chồng chị D và anh H về đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng do vợ chồng anh chị đã sống ly thân được gần 06 năm nay, không còn quan tâm đến nhau nên ông đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị D cho chị D được ly hôn với anh H. Vợ chồng anh chị có một con chung, hiện con đang ở với chị D và gia đình ông, do chị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và đưa đón con đi học hàng ngày. Vợ chồng ông có chỗ ở ổn định, nhà cửa rộng rãi và chị D có mở cửa hàng bán tạp hóa tại nhà ở của vợ chồng ông, thu nhập trung bình được 7-8 triệu đồng/tháng nên đủ điều kiện nuôi dưỡng con tốt. Để tạo điều kiện cho con chung của anh H chị trong cuộc sống, ông đề nghị Tòa án tiếp tục giao con chung của anh chị cho chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với vợ chồng ông thì anh chị không có.

Về quan hệ con chung: Chị D và gia đình hai bên trình bày, vợ chồng anh chị có một con chung là Đinh Công H, sinh ngày 26/3/2014. Hiện, chị D đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và đưa đón con đi học hàng ngày. Chị đề nghị Tòa án giao cho chị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, chị có chỗ ở ổn định tại nhà của bố mẹ đẻ chị và chị có mở cửa hàng bán tạp hóa tại nhà ở cùng với bố mẹ đẻ chị, thu nhập trung bình của chị được 7 - 8 triệu đồng/tháng nên chị có đủ điều kiện nuôi dưỡng con tốt. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19/8/2022, cháu Đinh Công H có nguyện vọng được ở với chị D.

Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với gia đình hai bên anh chị không có, chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo Biên bản xác minh ngày 17/8/2022 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Động thể hiện: Chị D và anh H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, được đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Động, huyện TK vào ngày 16/11/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà anh H cùng bố mẹ anh H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau về cách sống, vợ chồng ly thân nhau được khoảng 06 năm nay, không còn quan tâm đến nhau. Từ ngày chị D về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh H đi làm xa ở đâu địa phương không nắm được, thỉnh thoảng anh vẫn về nhà và vẫn đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Nay, chị D xin ly hôn anh H, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị D và hai bên gia đình. Anh chị có một con chung do chị D nuôi dưỡng. Về con chung, đề nghị Tòa án giao con chung cho chị D nuôi dưỡng. Về quan hệ tài sản, chị D không yêu cầu nên địa phương không có ý kiến gì.

Tại Công văn số: 18488/QLXNC-P5 ngày 05/9/2022 và Công văn số:

19079/QLXNC-P5 ngày 13/9/2022 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an cung cấp: theo dữ liệu Cục Quản lý xuất nhập cảnh quản lý có trường hợp Đinh Văn H, sinh ngày 17/8/1988 tại HD, CMND số 030088000681, khai hộ khẩu thường trú tại Tiên Động, TK, HD được Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp hộ chiếu số C1279091 ngày 11/01/2016 không có thông tin xuất nhập cảnh.

Chị D có đơn xin vắng mặt tại phiên toà và giữ nguyên quan điểm về việc giải quyết vụ án như chị đã trình bày với Tòa án, ngoài ra, chị không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Về quan hệ vợ chồng: xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đinh Văn H; về quan hệ con chung: Giao con chung Đinh Công H, sinh ngày 26/3/2014 cho chị Nguyễn Thị D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, thời gian kể từ tháng 9/2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị D về việc chị D không yêu cầu anh Đinh Văn H cấp dưỡng nuôi con. Anh Đinh Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về án phí: buộc chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000 đồng. Chị D đã thực hiện xong nghĩa vụ về án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và ấn định thời gian mở phiên tòa vào ngày 05/9/2022; tại phiên tòa, anh H vắng mặt, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào ngày hôm nay 21/9/2022. Tại phiên tòa hôm nay, anh H vẫn vắng mặt, chị D có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh H, chị D theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Thị D và anh Đinh Văn H được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Động, huyện TK, tỉnh HD vào ngày 16/11/2012 là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống chung của anh, chị hạnh phúc khoảng gần 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng không có cùng quan điểm sống và không thống nhất với nhau trong mọi việc. Anh H không tập trung kinh tế với chị. Trong cuộc sống vợ chồng, anh chị thiếu sự quan tâm, chia sẻ đối với nhau nên cuộc sống chung của anh chị không có hạnh phúc. Hai người đã sống ly thân gần 06 năm nay, không còn quan tâm đến nhau. Gia đình hai bên đã hòa giải cho anh chị nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Hiện nay, mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Tòa án đã triệu tập anh H nhiều lần qua bố mẹ đẻ anh, anh H đã biết việc Tòa án triệu tập nhưng không đến Tòa án làm việc, điều đó thể hiện anh không có thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn của chị D và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị D xin ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

Về quan hệ con chung: chị D và anh H có một con chung là Đinh Công H, sinh ngày 26/3/2014, hiện đang ở với chị D. Sau ly hôn, chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Hiện tại, chị đang bán tạp hóa tại nhà, thu nhập trung bình của chị được 7 - 8 triệu đồng/tháng; bố mẹ đẻ chị sẽ tạo điều kiện cho mẹ con chị về chỗ ở nên chị có đủ điều kiện nuôi dưỡng con tốt. Mặt khác, cháu H có nguyện vọng được ở với mẹ, gia đình chị D và anh H đều đề nghị Tòa án giao con chung cho chị D nuôi dưỡng. Anh H lại đi làm xa, thỉnh thoảng mới về nhà, chị D có công việc tốt, thu nhập ổn định, có chỗ ở thuận lợi, lại được sự giúp đỡ của bố mẹ đẻ trong việc nuôi dưỡng con nên chị D có nguyện vọng được nuôi dưỡng con và tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con là chính đáng, đảm bảo quyền lợi của con, phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về tài sản chung, tài sản riêng, về các khoản nợ chung, cho vay chung, nợ riêng, cho vay riêng, công sức đóng góp với gia đình hai bên: anh chị không có, chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị D xin ly hôn anh Đinh Văn H nên phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ vợ chồng: xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Đinh Văn H.

- Về quan hệ con chung: Giao con chung Đinh Công H, sinh ngày 26/3/2014 cho chị Nguyễn Thị D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, thời gian kể từ tháng 9/2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị D về việc chị D không yêu cầu anh Đinh Văn H cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đinh Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm Hôn nhân và gia đình nhưng được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2021/0000663 ngày 19/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ. Chị Nguyễn Thị D đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí sơ thẩm ly hôn.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt chị D và anh H. Chị D và anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về