Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16/8/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 99/2021/TLST-HNGĐ ngày 20/4/2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 02/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-DS ngày 19/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Tòng Thị T, sinh năm 1987 Địa chỉ: Bản Đ, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, vắng mặt có lý do.

2. Bị đơn: Anh Lường Văn S, sinh năm 1989 Địa chỉ: Bản Đ, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14/4/2021, biên bản lấy lời khai nguyên đơn chị Tòng Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lường Văn S lấy nhau và có tiến hành đăng ký kết hôn vào ngày 18/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc chỉ được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp cuộc sống của anh chị luôn xảy ra cãi vã. Anh S đã không giữ được mình chơi bời dẫn đến nghiện ma túy từ năm 2019. Mặc dù chị và gia đình hai bên đã khuyên bảo và tạo điều kiện cho anh đi cai nghiện song anh S vẫn không bỏ được khiến hôn nhân giữa chị và anh S trầm trọng sống không có hạnh phúc. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay. Từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai nữa, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh S.

Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lường Thị V O, sinh ngày 22/5/2008, hiện cháu đang ở với chị. Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Vân O đến khi thành niên và không yêu cầu anh S cấp dưỡng. Về điều kiện nuôi con: Chị có nơi cư trú ổn định vừa chăn nuôi vừa trồng trọt, chị còn có thu nhập làm thêm hàng tháng được thêm 3.000.000/tháng, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về:

Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, tại bản tự khai ngày 06/5/2021 và tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ ngày 06/5/2021 và tại phiên hòa giải ngày 06/5/2021 anh S nhất trí như lời trình bày của chị T về quan hệ hôn nhân là do tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn. Anh thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn do anh nghiện ma túy từ năm 2019, anh chị đã ly thân từ tháng 2/2021 cho đến nay. Anh không nhất trí ly hôn với lý do anh vẫn còn tình cảm với chị T.

Về con chung: Anh nhất trí như lời trình bày của chị Sáng về quan hệ con chung. Nếu phải ly hôn thì việc cháu Lường Thị Vân O, sinh ngày 22/5/2008 muốn ở với ai thì do cháu quyết định.

Về quan hệ tài sản: Nhất trí như ý kiến của chị T, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 16/8/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST - DS ngày 19/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G. Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10/8/2021, chị T vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai. Anh Lường Văn S vắng mặt lần 2 không có lý do

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận cho chị Tòng Thị T được ly hôn với anh Lường Văn S. Về con chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình: Chấp nhận việc giao cháu Lường Thị Vân O, sinh ngày 22/5/2008 cho chị Tòng Thị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận việc chị T không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Về quan hệ tài sản: Các bên đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Tòng Thị T là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Tòng Thị T.

Về kiến nghị: Không 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần G theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Tòng Thị T và anh Lường Văn S kết hôn ngày 18/8/2009 đến thời điểm giải quyết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 19/7/2021, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song nguyên đơn, bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

[4]. Tại phiên tòa ngày 16/8/2021, chị Tòng Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Lường Văn S vắng mặt không có lý do. HĐXX căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[5] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh S lấy nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai thừa nhận của đương sự và quá trình Tòa án thu thập chứng cứ theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh S không tu chí làm ăn, dẫn đến nghiện ma túy, chị T không sống cùng anh S từ tháng 2 năm 2021 cho đến nay, không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì.

Từ những phân tích và nhận định trên đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn là có thật như lời trình bày chị T, anh S đã không làm đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của người chồng, người cha trong gia đình, nghiện ma túy, vi phạm pháp luật. Mục đích xây dựng cuộc sống hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị T xin ly hôn với anh S mặc dù anh S không nhất trí vẫn cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[6]. Xét nguyệt vọng về con chung của các bên: Anh chị có 01 con chung là cháu Lường Thị Vân O, sinh ngày 22/5/2008. Cháu Vân O có nguyện vọng xin được ở với mẹ theo đơn nguyện vọng ngày 15/4/2021.

HĐXX căn cứ nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng con chung của chị T, chị có thu nhập và nơi cư trú ổn định, căn cứ nguyện vọng của cháu Vân O và ý kiến về con chung của anh Sáng, xét thấy yêu cầu của chị T là có căn cứ pháp luật đảm bảo được lợi ích chính đáng của cháu Vân O. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình: Quyết định chấp nhận ý kiến của chị Tòng Thị T giao cháu Lường Thị Vân O, sinh ngày 22/5/2008 cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận sự tự nguyện chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Anh S là đối tượng nghiện ma túy không tu chí làm ăn sẽ không đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung.

[7]. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Các bên đều khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[8]Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Tòng Thị T thuộc diện được miễn án phí, HĐXX miễn án phí DSST cho chị Tòng Thị T.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điểm a, b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Tòng Thị T được ly hôn với bị đơn anh Lường Văn S.

2. Về con chung: Giao cháu Lường Thị Vân O, sinh ngày 22/5/2008 cho chị Tòng Thị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên và có khả năng lao động, chấp nhận sự tự nguyện chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về:

Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí DSST: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí DSST cho chị Tòng Thị T

5. Về quyền kháng cáo: Chị Tòng Thị T, anh Lường Văn S được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

374
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về