Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào lúc 08 giờ 15 phút, ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hô n nhân và gia đình thụ lý số 149/2022/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về việc“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim A - sinh năm 1997

Trú tại: khu phố B, thị trấn C, huyện D, tỉnh Bình Thuận.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn E - sinh năm 1996

Trú tại: thôn F, xã G, TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt bà A, vắng mặt ông E.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Trần Thị Kim A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn E tự nguyện tìm hiểu, yêu thương, chung sống với nhau, đến năm 2016 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn C, huyện D, tỉnh Bình Thuận.

Trong quá trình chung sống, ông bà không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Ông E không lo làm ăn lo cho gia đình, bỏ bê con cái. Đã nhiều lần vợ chồng hòa giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn lại tiếp tục xảy ra, bà về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ năm 2019 đến nay, mạnh ai nấy sống. Nay không còn tình cảm vợ chồng nên bà yêu cầu được ly hôn với ông E.

Về con chung: Bà và ông E có con Nguyễn Trần Khánh H, sinh ngày 12/9/2014. Hiện bà đang nuôi con. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông E cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn E: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương cho biết, có đến nhà ông Nguyễn Văn E tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng ông E vắng nhà do đi làm tối mới về, có thông báo cho ông E các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng ông E không nhận và không đến tòa. Hiện ông E vẫn đang cư trú tại địa phương. Vợ chồng ông E thường xảy ra mâu thuẫn nên vợ ông E đã chuyển về nhà mẹ ruột sinh sống. Vì vậy, Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để giải quyết, xét xử vắng mặt ông E.

Vụ án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự (nguyên đơn) đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Bị đơn ông Nguyễn Văn E cư trú tại thôn F, xã G, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Văn E không tham gia phiên tòa. Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông E.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[3.1] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà A Hội đồng xét xử nhận thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông E là hợp pháp, ông bà đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn C, huyện D, tỉnh Bình Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 68/2016, ngày 03 tháng 6 năm 2016.

Bà A cho rằng, trong quá trình chung sống bà và ông E không hợp nhau nên thường xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau nên hai người không còn sống chung nhiều năm, mạnh ai nấy sống. Tòa án có xác minh tại chính quyền địa phương nơi bà A và ông E cư trú cho thấy bà A và ông E có xảy ra mâu thuẫn nên bà A có về nhà cha mẹ ruột sinh sống là đúng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông E đến Tòa hòa giải nhưng ông không đến tòa, chứng tỏ ông muốn bỏ mặc, không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà A, không còn thiết tha xây dựng, vun vén hạnh phúc gia đình. Từ những nhận định này, đủ cơ sở khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông E đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A.

[3.2] Về con chung: Bà A và ông E có con chung Nguyễn Trần Khánh H, sinh ngày 12/9/2014. Khi bà A và ông E không sống chung thì bà A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, nên để đảm bảo cuộc sống của cháu được ổn định cần tiếp tục giao cho bà A được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu và đúng với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng: Khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định “ cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”, nhưng bà A chưa yêu cầu ông E cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xét, nếu sau này bà A có yêu cầu thì khởi kiện bằng một vụ án khác.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[4] Về án phí: Bà A phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1/Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Điều 19, Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Luật thi hành án dân sự.

2/ Tuyên xử :

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị Kim A, bà A được ly hôn ông Nguyễn Văn E.

- Về con chung: Giao cho bà Trần Thị Kim A được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Trần Khánh H (giới tính nữ), sinh ngày 12 tháng 9 năm 2014. Bà A chưa yêu cầu ông Nguyễn Văn E cấp dưỡng cho con.

Sau khi ly hôn, ông E có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Bà Trần Thị Kim A phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai số 0004403 ngày 02/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết. Bà A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bà A có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông E vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về