Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 157/2022/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Đào Thị L. Địa chỉ cư trú: thôn LX 3, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

2. Bị đơn: anh Phạm Văn H. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn LX 3, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại phân trại số 4, Trại giam Thanh Phong thuộc Cục C10 - Bộ Công an.

Vắng mặt (anh H có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Đào Thị L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Đào Thị L và anh Phạm Văn H tự nguyện kết hôn tại UBND xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh vào năm 2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị về chung sống tại thôn LX 3, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc cho đến khi chị sinh con thứ hai (vào tháng 10/2017) vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm trong việc nuôi dạy con cái nên vợ chồng thường xảy ra cãi mắng, chửi bới, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng chị cũng được gia đình hai bên động viên, hòa giải nhưng không có kết quả. Năm 2019, anh H phải đi chấp hành án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đến năm 2020 trở về địa phương. Tuy nhiên khi trở về nhà, bản thân chị đã nhiều lần động viên, khuyên bảo nhưng anh H không từ bỏ được chất ma túy, vì vậy đến tháng 11 năm 2021, anh Phạm Văn H tiếp tục bị Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hiện nay đang chấp hành án tại phân trại số 4, Trại giam Thanh Phong (Thanh Hóa). Nay, chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn H.

- Về con chung: quá trình chung sống giữa chị L và anh H có 02 con chung tên là Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017. Khi ly hôn chị L nhận nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng cho con.

Chị L trình bày, hiện nay chị đang làm công nhân tại Công ty REGINA thuộc khu công nghiệp VISHIP (Hải Phòng), thu nhập trung bình 7.000.000đ/ 1 tháng, có đủ điều kiện, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: chị L xác định vợ chồng chị không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Phạm Văn H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2011, anh và chị Đào Thị L tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn vợ chồng anh về sống tại thôn LX 3, xã H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2021 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xảy ra cãi vã, chửi bới, xúc phạm nhau. Đến ngày 29/10/2021, anh bị Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xử phạt 18 tháng tù, hiện nay anh đang chấp hành án tại phân trại số 4, Trại giam Thanh Phong thuộc Cục C10 – Bộ Công an. Nay chị Đào Thị L đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh, quan điểm của anh là đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc.

- Về con chung: Quá trình chung sống giữa anh H và chị L có 02 con chung tên là Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017. Vì hiện nay anh đang chấp hành án phạt tù nên không có điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nên anh đồng ý để chị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi trưởng thành.

- Về tài sản chung và nợ chung: anh H xác định vợ chồng anh không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án tiến hành lấy lời khai của con trên bảy tuổi của chị L và anh H là cháu Phạm Đào Duy V. Khi được hỏi ý kiến, cháu V trình bày: Nếu bố mẹ ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.

* Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương, đại diện UBND xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh cho biết: chị Đào Thị L và anh Phạm Văn H có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thị xã Đ vào ngày 19/02/2011 và về chung sống với nhau tại thôn LX 3, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Trong quá trình chung sống tại địa phương, anh H là đối tượng nghiện chất ma túy và hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Phong (Thanh Hóa). Về con chung: giữa chị L và anh H có 02 người con chung là Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017, hiện nay các con chung đang ở cùng chị L, chị L đang làm công nhân khu Công nghiệp Viship (Hải Phòng) nên có đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, còn anh H đang chấp hành án phạt tù nên không có đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung và nợ chung của chị L và anh H: địa phương không nắm được. Nay, chị L đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh H và được nuôi dưỡng cả hai con chung, quan điểm của địa phương: đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, giải quyết cho chị Đào Thị L được ly hôn với anh Phạm Văn H; giao 02 con chung là Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng cho con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: thủ tục thụ lý, thẩm quyền giải quyết đơn khởi kiện của chị Đào Thị L và việc tiến hành các thủ tục tố tụng khác, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Đào Thị L và anh Phạm Văn H tự nguyện về chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định nên được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống, giữa chị L và anh H có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã, chửi bới, xúc phạm nhau; mặt khác anh H nhiều lần phải đi chấp hành hình phạt tù. Kể từ khi anh H đi chấp hành án tại Trại giam Thanh Phong, chị L đã về nhà bố mẹ đẻ cùng hai con sinh sống, cả hai không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Nay chị L đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh H cũng có quan điểm đồng ý ly hôn với chị L vì cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc.

Từ đó xác định: Mâu thuẫn giữa chị L và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị L được ly hôn anh H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung:

Chị Đào Thị L và anh Phạm Văn H có hai con chung là cháu Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017. Nay ly hôn chị L nhận nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng cho con. Khi được hỏi ý kiến của con chung trên bảy tuổi, cháu V có nguyện vọng ở với chị L. Mặt khác, trong các bản tự khai; đơn xin xét xử vắng mặt, anh H trình bày hiện nay anh đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Thanh Phong nên không có điều kiện nuôi dưỡng con chung, vì vậy anh đồng ý để chị L được quyền nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi trưởng thành. Do đó, cần giao cho chị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến tuổi trưởng thành, anh H không phải cấp dưỡng cho con là phù hợp với quy định của pháp luật.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chưa thành niên, nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con không đủ điều kiện hoặc lợi ích của con chưa thành niên không được đảm bảo thì căn cứ Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, các đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: chị Đào Thị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Đào Thị L được ly hôn anh Phạm Văn H.

2. Về con chung: chị Đào Thị L có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con tên là Phạm Đào Duy V, sinh ngày 31/3/2012 và Phạm Tuệ L, sinh ngày 26/10/2017 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi).

Anh Phạm Văn H không phải cấp dưỡng cho con.

Anh Phạm Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con. Chị Đào Thị L cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Phạm Văn H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí: chị Đào Thị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0009440 ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Triều. Chị Lương đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về