Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 230/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 230/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 8 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý: 199/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/7/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1987 (có mặt) Địa chỉ: Thôn 5, xã N, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Chu Thế T, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn G, xã Đ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/6/2021, lời khai trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đỗ Thị H trình bày:

Chị Đỗ Thị H và anh Chu Thế T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn do UBND xã Đ, huyện H cấp ngày 13/01/2011. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do gia đình nhà chồng và chồng không tôn trọng chị H và bố mẹ đẻ của chị nên thường xuyên có lời lẽ xúc phạm. Thời gian gần đây chị H phát hiện anh T có mối quan hệ không lành mạnh với người phụ nữ khác, có nói thì anh T lại đánh đập nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nặng nề. Từ ngày 02/6/2021, chị H đã phải về nhà mẹ đẻ ở, từ đó vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Chu Thế T.

Về con: Anh chị có 03 con chung là cháu Chu Thế Minh H, sinh ngày 20/11/2011; Cháu Chu Thị Kim A, sinh ngày 27/8/2013; Cháu Chu Thế Minh N, sinh ngày 20/5/2018. Chị H có nguyện vọng được nuôi cả hai cháu Chu Thị Kim A và Chu Thế Minh N, nhường anh T trực tiếp nuôi cháu Chu Thế Minh H, không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ: Chị H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 01/7/2021 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Chu Thế T trình bày:

Anh Chu Thế T và chị Đỗ Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống bình thường không có mâu thuẫn gì to tát, chỉ là những va chạm vặt trong cuộc sống. Thời gian khoảng 03 tháng nay anh T và một số anh em có gặp nhau, cùng đi hát Karaoke về muộn nên chị H có nghi ngờ anh trai gái vì vậy mâu thuẫn vợ chồng mới trở nên trầm trọng. Từ đầu tháng 6/2021 đến nay, chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở, anh T có đến động viên chị H về nhưng chị H không về. Nay chị H làm đơn xin ly hôn anh T, anh không muốn ly hôn, tuy nhiên nếu chị H cương quyết ly hôn thì anh T cũng đồng ý ly hôn chị H.

Về con: Anh chị có 03 con chung là cháu Chu Thế Minh H, sinh ngày 20/11/2011; Cháu Chu Thị Kim A, sinh ngày 27/8/2013; Cháu Chu Thế Minh N, sinh ngày 20/5/2018. Anh T yêu cầu nếu chị H có sổ đỏ chính chủ và có nhà ở chính chủ thì anh T nhường quyền nuôi cả ba con cho chị H, tuy nhiên, hiện tại chị H không có nhà ở và đất chính chủ nên anh T tạm thời giữ cả ba con một thời gian cho đến khi chị H có nhà đất thì sẽ giao lại con cho chị H. Thời gian anh T trực tiếp nuôi con, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng.

Về tài sản và công nợ: Anh T không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 01/7/2021, cháu Chu Thế Minh H có nguyện vọng xin được ở với bố; Cháu Chu Thị Kim A muốn được ở với cả bố và mẹ, không muốn phải lực chọn việc ở với bố hay với mẹ.

Xác minh tại địa phương xã Đ, huyện H: Thời gian gần đây, giữa anh T và chị H đã sảy ra mâu thuẫn, thời gian cụ thể và nguyên nhân mâu thuẫn thì địa phương không nắm được nhưng từ 02/6/2021 đến nay chị H đã về quê tại xã N, huyện H để ở và không sinh sống tại địa phương xã Hoằng Đông nữa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa trình bày quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn, bị đơn được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Đỗ Thị H được ly hôn anh Chu Thế T. Đề nghị giao cháu Chu Thế Minh H cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao hai cháu Chu Thị Kim A và Chu Thế Minh N cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H.

Về tài sản: Chị H và anh T không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị Đỗ Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Đỗ Thị H làm đơn khởi kiện xin ly hôn anh Chu Thế T và xin được nuôi con, đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn - anh Chu Thế T có địa chỉ tại huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về sự vắng mặt của bị đơn: Tại phiên tòa ngày 28/7/2021, anh Chu Thế T vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Tòa án đã hoãn phiên tòa, ấn định thời gian xét xử lại vụ án và tống đạt ngay Quyết định hoãn phiên tòa tới anh T. Tại phiên tòa lần thứ hai, anh T vắng mặt không có lý do, nên căn cứ Điều 227, 228, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh T là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về Nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị H và anh Chu Thế T tự nguyện kết hôn và có đăng lý kết hôn tại UBND xã Hoằng Đông, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống vợ chồng anh chị cũng đã có những mâu thuẫn, va chạm. Chị H cho rằng vợ chồng mâu thuẫn là do chồng và gia đình nhà chồng không tôn trọng chị và bố mẹ chị; anh T cho rằng va chạm giữa anh chị chỉ là những mâu thuẫn, va chạm nhỏ, không có gì to tát. Mặc dù nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng hai anh chị đưa ra là khác nhau nhưng cả hai đều thống nhất, thời gian khoảng 3 tháng gần đây mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng và từ ngày 02/6/2021 chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở, anh T có đến động viên chị H về nhưng chị H không về và vợ chồng đã sống ly thân. Vì vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh T mặc dù mong muốn đoàn tụ nhưng vì chị H cương quyết ly hôn nên anh cũng đồng ý, thể hiện ý chí níu kéo tình cảm vợ chồng giữa anh chị là không còn nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh T.

[2.2]. Về con chung: Anh chị có 03 con chung là cháu Chu Thế Minh H, sinh ngày 20/11/2011; Cháu Chu Thị Kim A, sinh ngày 27/8/2013; Cháu Chu Thế Minh N, sinh ngày 20/5/2018. Hội đồng xét xử nhận định: Cả chị H và anh T đều đầy đủ khả năng nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Cháu Chu Thế Minh H có nguyện vọng xin ở với bố, chị H cũng thống nhất nên giao cháu Huy cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Cháu Chu Thị Kim A không biết phải lựa chọn ở với ai nhưng là con gái nên cần sự quan tâm, bảo ban, chăm sóc của mẹ; Cháu Chu Thế Minh N còn nhỏ, cần sự quan tâm, chăm sóc của mẹ nên giao hai cháu Kim Anh và Minh Nghĩa cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng như yêu cầu của chị H là hoàn toàn phù hợp. Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3]. Về tài sản và công nợ: Chị H và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4]. Về án phí: Nguyên đơn chị Đỗ Thị H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 235, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, khoản 1,3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị H được ly hôn anh Chu Thế T.

2. Về con chung: Giao cháu Chu Thế Minh H, sinh ngày 20/11/2011 cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Giao hai cháu Chu Thị Kim A, sinh ngày 27/8/2013 và Chu Thế Minh N, sinh ngày 20/5/2018 cho chị Đỗ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị H.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn đã nộp là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số: AA/2019/0010459 ngày 23/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Chị H đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 230/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:230/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về