TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2021/TLST-HNGĐ, ngày 26 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 21/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 08/6/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Ngọc T, sinh năm 1990, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện , tỉnh Trà Vinh.
Chỗ ở hiện nay: Ấp , xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.
2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1985, vắng mặt không có lý do. Địa chỉ: Ấp V, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.
Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/4/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Ngọc T trình bày:
Vào năm 2008 chị và chồng tên Lê Văn T do quen biết nhau đã tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã L, huyện D năm 2008. Sau khi cưới nhau vợ chồng về sinh sống tại ấp T, xã L. Quá trình chung sống có 01 con chung tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009. Thời gian đầu sau khi cưới nhau vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng đầu năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T thường xuyên cờ bạc ăn thua bằng tiền, thiếu nợ và chị đã nhiều lần trả nợ cho anh T. Sau đó chị có nhờ gia đình 02 bên khuyên can nhưng anh T vẫn tính nào tật nấy, không thay đổi. Vì vậy vợ chồng đã ly thân từ tháng 8/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không có liên lạc, qua lại hỏi thăm nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung vợ chồng không còn ý nghĩa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn T.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 hiện đang sống chung với chị; chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, anh Lê Văn T luôn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; anh T cũng không có lời khai.
Tại biên bản lấy lời khai của đương sự đề ngày 21/5/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, em Lê Thị Khánh P trình bày:
Cha mẹ ly hôn em không có ý kiến, nếu cha mẹ ly hôn em có nguyện vọng sống chung với mẹ tên Trần Ngọc T.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Nguyên đơn chị Trần Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt, nội dung đơn chị T giữ nguyên yêu cầu giải quyết về hôn nhân, nuôi con, tài sản và nợ chung.
- Bị đơn anh Lê Văn T dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
Lời phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về thủ tục tố tụng: Thủ tục thụ lý hồ sơ, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi khởi kiện đến khi Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa đều tống đạt cho các đương sự đầy đủ đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Trần Ngọc T được ly hôn với anh Lê Văn T; về con chung tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 giao cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.
Về án phí: Buộc chị Trần Ngọc T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Các tình tiết, sự kiện đương sự đã thống nhất: Không có.
Các tình tiết, sự kiện đương sự không thống nhất:
- Nguyên đơn chị Trần Ngọc T yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn T; xin nuôi con tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009; không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng, tài sản và nợ chung.
- Bị đơn anh Lê Văn T không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Chị T khởi kiện anh T yêu cầu ly hôn, nuôi con, không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng, tài sản và nợ chung. Anh T không có yêu cầu phản tố nào khác. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án ly hôn và tranh chấp về nuôi con. Bị đơn anh Tư có địa chỉ cư trú tại ấp V, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Lê Văn T dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh T theo quy định của pháp luật.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Ngọc T:
[3.1] Về hôn nhân: Chị T và anh T xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh năm 2008. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, chị T và anh T đủ điều kiện kết hôn. Căn cứ vào các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình, xác định hôn nhân của chị T và anh T là hợp pháp.
Trong quá trình chung sống, chị T khai nhận: Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do anh T thường xuyên cờ bạc ăn thua bằng tiền, thiếu nợ và chị đã nhiều lần trả nợ. Sau đó chị có nhờ gia đình 02 bên khuyên can nhưng anh T vẫn tính nào tật nấy, không thay đổi. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 8/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không có liên lạc, qua lại hỏi thăm nhau.
Xét thấy gia đình là tế bào xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và bền vững. Quá trình chung sống giữa chị T và anh T chưa thống nhất với nhau về quan điểm sống, về ứng xử giao tiếp; đáng lẽ khi mâu thuẫn xảy ra anh chị phải ngồi lại tìm phương án để giải quyết mọi vấn đề bất đồng phát sinh nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, nhưng khi xảy ra mâu thuẫn anh chị bỏ mặt không quan tâm đến hạnh phúc mà anh chị đã xây dựng nhiều năm qua, từ đó làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Tại các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Tòa án đã tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn lại với nhau, tuy nhiên anh T đều vắng mặt, chị T kiên quyết xin ly hôn.
Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh T ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xét yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2] Về con chung: Chị T và anh T chung sống với nhau có 01 con tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009 hiện đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con, cháu T cũng có nguyện vọng sống chung với mẹ. Xét từ khi vợ chồng ly thân đến nay, chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con và đảm bảo phát triển tốt về mọi mặt của con. Tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình quy định “…Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con…”. Do đó Hội đồng xét xử giao quyền trực tiếp nuôi cháu P cho chị T là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ chung: Các đương sự không không có tranh chấp nên không xem xét.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Thức phải nộp án phí hôn nhân gia đình không có giá ngạch là 300.000 đồng.
[6] Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chị Trần Ngọc T được ly hôn với anh Lê Văn T.
2. Về con chung: Chị Trần Ngọc T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Lê Thị Khánh P, sinh ngày 03/11/2009.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.
3. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản và nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.
4. Về án phí: Buộc chị Trần Ngọc T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai số 0003890 ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duyên Hải.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 19/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 19/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Duyên Hải - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về