TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 01-4-2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 261/2021/TLST-HNGĐ ngày 24-12-2021 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28-02-2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23-3-2022, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; nơi cư trú: Xóm 9, thôn HA, xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng.
* Bị đơn: Anh Lương Văn Ph; nơi cư trú: Xóm 9, thôn HA, xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 22-11-2021, bản tự khai và tại phiên hòa giải, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Chị và anh Lương Văn Ph kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng từ ngày 23-3-2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian đầu thì Ph sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung, không tin tưởng nhau trong quan hệ hôn nhân, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn không tôn trọng nhau. Mặc dù chị đã cố gắng khắc phục những mâu thuẫn nhưng không đạt kết quả, vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lương Văn Ph.
Về con chung: Chị và anh Ph có 02 con chung là Lương Nguyễn Bình A, sinh ngày 16-3-2009 và Lương Đức Ph, sinh ngày 01-3-2012. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con chung Lương Nguyễn Bình A cho chị trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Lương Đức Ph cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị tự thỏa thuận với anh Ph, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh Ph xin tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai, tại phiên hoà giải, bị đơn là anh Lương Văn Ph, trình bày:
Anh xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như nội dung chị H trình bày là đúng. Quá trình chung sống đến thời gian gần đây thì Ph sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp, không tìm được tiếng nói chung, hiện vợ chồng anh chị đã sống ly thân. Tuy nhiên, anh thấy vẫn còn tình cảm với chị H và con còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ nên, anh không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh và chị H có 02 con chung là Lương Nguyễn Bình A, sinh ngày 16-3-2009 và Lương Đức Ph, sinh ngày 01-3-2012. Khi ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con anh tự thỏa thuận với chị H, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xác định quan hệ tranh chấp về Ly hôn và nuôi con là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chấp hành không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Lương Văn Ph; giao con chung là Lương Nguyễn Bình A, sinh ngày 16-3-2009 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung là và Lương Đức Ph, sinh ngày 01-3-2012 cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H có đơn xin ly hôn với anh Lương Văn Ph có nơi cư trú tại xã Công Hiền, huyện Vĩnh Bảo, Ph phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo; Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chấp hành không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và nguyên đơn.
- Về nội dung vụ án:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lương Văn Ph kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 23-3-2011. Như vậy, hôn nhân này là hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị H và anh Ph đều xác nhận vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì Ph sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H xin ly hôn nhưng anh Ph không đồng ý; anh Ph cho rằng vẫn còn tình cảm với chị H và con còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ. Tuy nhiên, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không thành, tại hai phiên Toà anh Ph đều vắng mặt không có lý do, từ đó xác định được mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Ph đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H xin ly hôn với anh Lương Văn Ph.
[4] Về con chung: Chị H và anh Ph có 02 con chung là Lương Nguyễn Bình A, sinh ngày 16-3-2009 và Lương Đức Ph, sinh ngày 01-3-2012. Khi ly hôn, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bình A vào giao cháu Đức Ph cho anh Ph nuôi dưỡng, anh Ph đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Xét thấy, cả 02 con chung của chị H và anh Ph đều trên 7 tuổi, cháu Bình A có nguyện vọng được ở với mẹ còn cháu Đức Ph có nguyện vọng được ở với bố, chị H và anh Ph đều có việc làm và có thu nhập ổn định có đủ điều kiện đảm bảo được việc nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung tốt. Do đó, xuất Ph từ nguyện vọng và lợi ích mọi mặt của con chung Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Lương Nguyễn Bình A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Lương Đức Ph cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, do chị H và anh Ph không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh Ph không yêu cầu nên không xét giải quyết.
[6] Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Lương Văn Ph.
2. Về con chung: Giao con chung là Lương Nguyễn Bình A, sinh ngày 16- 3-2009 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; giao con chung là Lương Đức Ph, sinh ngày 01-3- 2012 cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án theo biên lai thu số 0002152 ngày 22-12-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh Ph vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 18/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về