Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11/7/2022, tại Phòng xử án, Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 31/2022/TLST-HNGĐ ngày 17/02/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/5/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị H, sinh năm 1991 – vắng mặt (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn X, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1989 – Vắng mặt Địa chỉ: Thôn Y, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phan Thị H bày có nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh H sống với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại UBND xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 10/7/2015. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi nhau bất đồng quan điểm do anh H hay uống rượu, lười lao động, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh chị đã ly thân từ tháng 05 năm 2021. Nay chị nhận thấy nên tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Trần Trâm A, sinh ngày 28/02/2018 (hiện đang ở với chị) và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 19/01/2016 (hiện đang ở với anh H), sau khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu H1 cho anh H nuôi đến khi đủ tuổi thành niên và giao cháu A cho chị nuôi đến khi đủ tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng không có ý kiến, không đến Tòa án tham gia tố tụng.

Tại phiên tòa kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phan Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về khởi kiện và thụ lý vụ án: Ngày 19/11/2021, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo và Tòa án ra thông báo về quyền lựa chọn hòa giải và lựa chọn hòa giải viên, ngày 12/01/2022 nguyên đơn nộp đơn đề nghị không lựa chọn hòa giải; Tòa án thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, ngày 16/02/2022 nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí và Tòa án thụ lý vụ án là đúng quy định tại Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ là đúng quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về trình tự thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Phan Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự là phù hợp khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự

[4] Về yêu cầu của đương sự:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị Phan Thị H và anh H là hôn nhân hợp pháp, đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại Ủy ban nhân dân xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 10/7/2015. Sau khi kết hôn chị Phan Thị H và anh H sống hạnh phúc nhưng sau đó xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, do bất đồng quan điểm sống, hiện nay chị Phan Thị H và anh H đã sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Kết quả xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị Phan Thị H và anh H thì địa phương xác định: Về tình trạng hôn nhân giữa chị Phan Thị H và anh H đã sống ly thân, chị Phan Thị H đã về nhà cha mẹ đẻ sinh sống.

Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị Phan Thị H và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên giải quyết cho chị Phan Thị H ly hôn anh H là phù hợp với khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống, chị Phan Thị H và anh H có 02 con chung là cháu Trần Trâm A, sinh ngày 28/02/2018 và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 19/01/2016; khi ly hôn chị Phan Thị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là cháu Trần Trâm A và giao cháu Trần Văn H1 cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ tuổi thành niên.

Theo kết quả xác minh được chính quyền địa phương xác định: Hiện tại, cháu Trần Trâm A đang sinh sống cùng chị Phan Thị H và cháu Trần Văn H1 đang sinh sống cùng anh H.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyện vọng chị Phan Thị H là chính đáng, cháu A là nữ nên cần có mẹ chăm sóc, giáo dục. Đối với cháu H1, hiện tại đang sinh sống với anh H và chị Phan Thị H cũng đề nghị giao cháu H1 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, giao cho chị Phan Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu A; giao cháu H1 cho anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con chung đủ tuổi thành niên là phù hợp Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Nguyên đơn chị Phan Thị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4.4] Về tài sản chung và công nợ chung: Nguyên đơn chị Phan Thị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Phan Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phan Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị H được ly hôn với anh Trần Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Trâm A, sinh ngày 28/02/2018 cho chị Phan Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Trần Văn H1, sinh ngày 19/01/2016 cho anh Trần Văn H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con chung đủ tuổi thành niên.

Chị Phan Thị H và anh Trần Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phan Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Phan Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Nguyên đơn chị Phan Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008498 ngày 16/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B. Chị Phan Thị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về