Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2022/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 4 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08/6/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Khúc Thị Th, sinh năm 1985; nơi đăng ký HKTT: thôn C, xã X, huyện Gi, tỉnh Hải Dương; hiện trú tại: thôn M, xã C, huyện M, tỉnh Hải Dương (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1977; trú tại: thôn C, xã X, huyện Gi, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình làm việc nguyên đơn – chị Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được Uỷ ban nhân dân (UBND) xã X, huyện Gi tổ chức đăng ký và cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 08/7/2008. Sau khi kết hôn, hai người sống cùng gia đình anh Đ tại xã X, huyện Gi; cuộc sống chung giữa hai người hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ chơi bời, không tu chí làm ăn, thường xuyên ruống rượu say về đánh chửi chị; chị và hai bên gia đình nhiều lần góp ý nhưng anh Đ không thay đổi. Do mâu thuẫn, tháng 8 năm 2016 chị về sống cùng bố mẹ đẻ của chị tại xã C, huyện M, hai người ly thân, không gặp gỡ, quan tâm đến nhau. Chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, hôn nhân không còn hạnh phúc nên khởi kiện xin ly hôn.

Về quan hệ con chung: Chị và anh Đ có 02 con là Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/5/2009 đang ở cùng anh Đ và Nguyễn Văn T1, sinh ngày 01/5/2014 đang ở cùng chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu T1, để cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng, chị không yêu cầu việc cấp dưỡng cho con. Chị đang xin việc làm vì chị mới đi nước ngoài về, chị có một khoản tiền tiết kiệm và được gia đình hỗ trợ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nên chị có đủ điều kiện trực tiếp nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Nguyễn Văn Đ: Quá trình giải quyết, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập anh Đ đến làm việc, tham gia phiên họp, phiên tòa song anh đều vắng mặt không có lý do.

Tại lời khai, bà Đỗ Thị Q là mẹ đẻ của chị Th trình bày: Về quá trình kết hôn, thời gian chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn, con chung giữa chị Th và anh Đ đúng như chị Th trình bày. Ngoài ra, bà khai anh Đ còn có lần đến nhà bà chửi bới, xúc phạm gia đình bà. Bà đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn theo nguyện vọng của chị Th và giao cháu T1 cho chị Th nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh Đ nuôi dưỡng, gia đình bà sẽ hỗ trợ chị Th trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con.

Tại biên bản xác minh, chính quyền xã X cung cấp: Địa phương xác định hôn nhân giữa chị Th và anh Đ là hợp pháp, quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, hai người sống ly thân đã lâu, đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn theo nguyện vọng của chị Th và giao cho mỗi người nuôi một con để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho các con.

Tại phiên Tòa: Chị Th, anh Đ đều vắng mặt. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh Đ; đề nghị Tòa án giao con Nguyễn Văn T1 cho chị nuôi dưỡng và giao con Nguyễn Văn T cho anh Đ nuôi dưỡng, chị không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Ngoài ra, chị không có yêu cầu, đề nghị nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang có quan điểm xác định việc Tòa án thụ lý, quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Khúc Thị Th đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS); Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Khúc Thị Th ly hôn anh Nguyễn Văn Đ; giao con Nguyễn Văn T1, sinh ngày 01/5/2014 cho chị Th nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/5/2009 cho anh Đ nuôi dưỡng, không buộc bên nào phải cấp dưỡng cho con; chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập anh Đ đến làm việc, tham gia phiên họp, phiên tòa song anh đều vắng mặt không có lý do; chị Th đề nghị không tiến hành hòa giải; Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai song bị đơn - anh Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; chị Th có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên vụ án không tiến hành hòa giải được và xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định tại các điều 207, 227 và Điều 228 BLTTDS.

[2] Chị Khúc Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã X, huyện Gi nơi sinh sống của anh Đ tổ chức đăng ký và cấp Giấy chứng nhận kết hôn, việc kết hôn không vi phạm điều cấm của pháp luật nên hôn nhân giữa chị Th và anh Đ là hợp pháp.

[3] Do vợ chồng mâu thuẫn, anh Đ đã có hành vi đánh chửi chị Th nên chị đã bỏ về sống cùng bố mẹ đẻ từ tháng 8 năm 2016 đến nay, hai người không quan tâm đến nhau. HĐXX thấy rằng, tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau..Như vậy, việc anh Đ có hành vi bạo lực gia đình (đánh chửi chị Th) dẫn đến anh chị không chung sống cùng nhau, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau từ năm 2016 đến nay đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự, HĐXX căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th ly hôn anh Đ.

[4] Về quan hệ chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/5/2009 đang ở cùng anh Đ và Nguyễn Văn T1, sinh ngày 01/5/2014 đang ở cùng chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cháu T1, để anh Đ nuôi tiếp tục nuôi cháu T, chị không yêu cầu việc cấp dưỡng cho con. HĐXX thấy rằng, kể từ khi anh chị mâu thuẫn, sống ly thân từ năm 2016 đến nay, cháu T được anh Đ nuôi dưỡng, cháu T1 được chị Th nuôi dưỡng, các cháu hiện đều học tập và phát triển bình thường. Mặt khác, nguyện vọng của cháu T muốn được ở với bố, cháu T1 muốn được ở với mẹ sau khi anh chị ly hôn và thực tế anh chị đều có điều kiện trực tiếp nuôi con nên để ổn định, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, HĐXX giao con Nguyễn Văn T cho anh Đ nuôi dưỡng, giao con Nguyễn Văn T1 cho chị Th nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Do không có yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết, nếu sau này các bên có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[6] Về án phí: Chị Khúc Thị Th khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về…án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Khúc Thị Th ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho chị Khúc Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là Nguyễn Văn T1, sinh ngày 01/5/2014; giao cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là Nguyễn Văn T, sinh ngày 20/5/2009 cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi), không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Chị Khúc Thị Th, anh Nguyễn Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Khúc Thị Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn), được đối trừ với số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Giang theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0000111 ngày 28/4/2022.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về