Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 23 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân  huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2021/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 01 năm 2021 “Về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trương Th Bé C, sinh năm 1988 (có mặt). Địa chỉ: ấp T, xã A,  huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn : Lê Văn K, sinh năm: 1987 (vắng mặt, có đơn đề ngh xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã A,  huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 13 tháng 01 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trương Th Bé C trình bày:

- Về hôn nhân: chị Trương Th Bé C và anh Lê Văn K tự nguyện tổ chức lễ cưới vào năm 2009, nhưng đến ngày 08/3/2010 anh ch mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A. Sau khi kết hôn chị C và anh K chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị C và anh K sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Chị C yêu cầu được ly hôn với anh K.

- Về con chung: trong thời gian chung sống chị C và anh K có 01 người con chung tên Lê Kiến Q, sinh ngày 25 tháng 5 năm 2010. Hi n nay cháu Q đang sống chung với chị C. Chị C yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q cho đến khi cháu Q thành niên, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: trong thời gian chung sống chịC và anh K không có tài sản chung và nợ chung, nên chị C không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa, chị Trương Th Bé C vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

* Trong quá trình giải quyết vụ án b đơn anh Lê Văn K trình bày:

- Về hôn nhân: anh Lê Văn K và chị Trương Th Bé C tự nguyệntổ chức lễ cưới vào năm 2009, nhưng đến ngày 08/3/2010 anh chị mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A. Sau khi kết hôn anh K và chị C chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Anh K và chị C sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Anh K yêu cầu được đoàn tụ, không thống nhất ly hôn với chị C, vì anh còn thương chị C và thương con.

- Về con chung: trong thời gian chung sống anh K và chị C có 01 người con chung tên Lê Kiến Q, sinh ngày 25 tháng 5 năm 2010, hi n nay cháu Q đang sống chung với chị C. Anh K thống nhất cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q cho đến khi cháu Q thành niên, anh K không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: trong thời gian chung sống anh K và chị C không có tài sản chung và nợ chung, nên anh K không yêu cầu giải quyết.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào ngh án đ chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việcgiải quyết vụ án: đề ngh Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trương Th Bé C. Về hôn nhân: xử cho chị C được ly hôn với anh K; về con chung: giao cháu Lê Kiến Q, sinh ngày 25 tháng 5 năm 2010 cho chị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Q thành niên, do chị C không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con, nên anh K không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: chị C và anh K không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Theo đơn khởi kiện ngày 13 tháng 01 năm 2021 của chị Trương Th Bé C thì chị C khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn K. Hội đồng xét xử xác định quan h tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án nhân dân  huyện Cù Lao Dung thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Anh Lê Văn K là b đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lý, có đơn đề ngh xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh K.

[2] Về quan h hôn nhân: chị Trương Th Bé C và anh Lê Văn K tự nguyệnkết hôn khi đã đủ tuổi kết hôn và đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình, chị C và anh K có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A,  huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên hôn nhân của chị C và anh K là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn thì chị C và anh K chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên chị C và anh K sống không còn hạnh phúc. Khi phát sinh mâu thuẫn thì chị C và anh K không cùng nhau khắc phục, tìm bi n pháp giải quyết, động viên, an ủi nhau và đ sống ly thân từ tháng 10 năm 2018. Từ khi sống ly thân cho đến nay chị C và anh K không gặp nhau để bàn bạc về việc hàn gắn lại hạnh phúc gia đình, nên mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm tr ng. Chị C yêu cầu được ly hôn; anh K yêu cầu được đoàn tụ, không thống nhất ly hôn, vì anh còn thương chị C và thương con.

Xét thấy: anh K cho rằng anh còn thương chị C và thương con, nên không thống nhất ly hôn, nhưng từ khi sống ly thân cho đến nay, anh K không chủ động gặp chị C để bàn bạc về việc đoàn tụ, mà mâu thuẫn ngày càng trầm tr ng hơn, hi n nay hôn nhân của chị C và anh K đ lâm vào tình trạng trầm tr ng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên chị C và anh K không còn khả năng để đoàn tụ. Vì vậy, anh K yêu cầu được đoàn tụ là không có căn cứ để chấp nhận; chị C yêu cầu được ly hôn với anh K là hoàn toàn có cơ sở và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận, xử cho chị C được ly hôn với anh K.

[3] Về con chung: trong thời gian chung sống ch Trương Th Bé C và anh Lê Văn K có 01 người con chung tên Lê Kiến Q, sinh ngày 25 tháng 5 năm 2010. Từ khi chị C và anh K sống ly thân cho đến nay chị C trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q. Chị C và anh K cùng thống nhất cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q cho đến khi cháu Q thành niên; nguyệnv ng của cháu Q cũng muốn được tiếp tục sống chung với chị C; chị C không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy: ch Trương Th Bé C và anh Lê Văn K đ thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, việcthỏa thuận này cũng phù hợp với nguyệnv ng của cháu Q và đảm bảo quyền lợi về m i mặt của cháu Q, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao cháu Q cho chị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Q thành niên. Do chị C không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con, nên anh K không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho anh K, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: trong thời gian chung sống ch Trương Th Bé C và anh Lê Văn K không có tài sản chung. Chị C và anh K không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: trong thời gian chung sống ch Trương Th Bé C và anh Lê Văn K không có nợ chung. Chị C và anh K không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân  huyện Cù Lao Dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ch Trương Th Bé C. Như đ nhận định ở phần trên, xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân  huyện Cù Lao Dung là có cơ sở và phù hợp pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc ch Trương Th Bé C phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng chị C được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đ nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006977 ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự  huyện Cù Lao Dung, như vậy chị C đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm; anh Lê Văn K không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo bản án: áp dụng Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Ngh quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ch Trương Th Bé C.

1. Về hôn nhân: xử cho ch Trương Th Bé C được ly hôn với anh Lê Văn K.

2. Về con chung: giao cháu Lê Kiến Q, sinh ngày 25 tháng 5 năm 2010 cho ch Trương Th Bé C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Q thành niên. Anh Lê Văn K không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho anh K, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: ch Trương Th Bé C và anh Lê Văn K không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: ch Trương Th Bé C phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng chị C được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đ nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, l phí Tòa án số 0006977 ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự  huyện Cù Lao Dung, như vậy chị C đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm; anh Lê Văn K không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo bản án: nguyên đơn ch Trương Th Bé C có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với b đơn anh Lê Văn K không có mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hi n theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 14/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về