TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 13/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 155/2023/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2024/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 03 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Tuyết T, sinh năm 1990.
Địa chỉ: ấp B, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Ông Vũ Phi L, sinh năm 1990.
Địa chỉ: ấp B, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
(Bà T xin vắng mặt, ông L vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông L tự nguyện tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào ngày 06/3/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn rồi bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là vợ chồng bất đồng quan điểm và lối sống, giữa vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa. Hiện hai vợ chồng đã có cuộc sống riêng, không còn quan tâm chăm sóc cho nhau nữa. Nay bà nhận thấy tình cảm với ông L không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Vũ Phi L.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 12/10/2016, Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 20/8/2018. Ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 02 con chung, tạm thời không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Theo bà T trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Vũ Phi L đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Vũ Phi L vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.
Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện theo đúng quy định.
Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2024/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 03 năm 2024, nhưng ông Vũ Phi L vắng mặt không lý do, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà T, ông L.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà T. Về con chung: Giao các cháu Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 12/10/2016, Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 20/8/2018 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông L không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không đặt ra giải quyết. Bà T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”; bị đơn đang cư trú tại ấp Bắc Sơn, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự:
Nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết T gửi đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Tòa án đã tiến hành tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2024/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 03 năm 2024, để tham gia phiên tòa nhưng ông L vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung, xử vắng mặt bà T, ông L [2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Tuyết T và ông Vũ Phi L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đã được Ủy ban nhân xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 06/3/2014 nên áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Theo bà T trình bày sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian rồi bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống. Hiện cả hai đã sống ly thân không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc cho nhau. Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Vũ Phi L đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông L nhưng ông vẫn vắng mặt, cho thấy ông L không muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Mặt khác, theo Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông L mà chính quyền địa phương cho biết: Vợ chồng bà T, ông L sống chung tại ấp Bắc Sơn, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn hay không thì địa phương không nắm rõ do đương sự không trình báo.
Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông L đã thật sự trầm trọng, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc việc bà T xin ly hôn với ông L là có cơ sở. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Tuyết T.
[2.2] Về con chung: Trong quá trình sống chung bà T và ông L có 02 con chung là Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 12/10/2016, Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 20/8/2018. Khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là trách nhiệm của cha mẹ. Bà T xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Ông L đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc, hiện tại con chung đang do bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt của con chung nên tiếp tục giao các cháu H, H cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Tạm thời ông L không cấp dưỡng nuôi con chung do bà T không có yêu cầu.
Sau khi ly hôn, bà T, ông L vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Ông L có quyền thăm nom con, không ai được cản trở thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
[2.3] Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[2.4] Về nợ chung: Theo Bà T trình bày là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bị đơn vắng mặt chưa có lời khai về nợ chung, nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Bà T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;
Căn cứ vào dụng Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Tuyết T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Tuyết T được ly hôn với ông Vũ Phi L 2. Về con chung: Giao các cháu Vũ Hoàng Minh y, sinh ngày 12/10/2016, Vũ Hoàng Minh H, sinh ngày 20/8/2018 cho bà Lê Thị Tuyết T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, tạm thời ông Vũ Phi L không cấp dưỡng nuôi con. Ông Vũ Phi L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về nợ chung: Không đặt ra giải quyết.
5. Về án phí: Bà Lê Thị Tuyết T phải chịu tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0007550 ngày 18/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 13/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về