Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 549/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đinh Thị P - sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Khu phố 8, phường V, thành phố Ph, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Lê H - Sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Khu phố 8, phường V, thành phố Ph, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đinh Thị P trình bày:

Bà Đinh Thị P và ông Lê H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường V, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 153 năm 2001. Sau khi kết hôn vợ chồng bà chung sống tại khu phố 8, phường V, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn do ông Lê H ngoại tình với người phụ nữ khác về nhà đánh đập bà. Bà P đã nhiều lần khuyên giải để hàn gắn cuộc sống gia đình nhưng ông H không nghe, vẫn tiếp tục có quan hệ bồ bịch bên ngoài. Từ năm 2017 đến nay bà và ông H không chung sống với nhau, vợ chồng bà mạnh ai nấy sống, không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau và cũng không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay, bà xác định đã hết tình cảm với ông H nên mong muốn được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng bà có 03 con chung tên Lê Đinh Thị Bích T, sinh ngày 18/7/2001 (đã trưởng thành), cháu Lê Đinh K, sinh ngày 05/6/2006, cháu Lê Đinh C sinh ngày 31/10/2010. Các cháu K, C hiện đang sống với bà, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng. Tại đơn khởi kiện, bà P yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung 4.000.000 đồng/ tháng sau đó bà rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung và nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Lê H quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vắng mặt bị đơn.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trình bày của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Đinh Thị P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Lê H. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ở phường V, TP. Ph nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Đối với việc vắng mặt của nguyên đơn: Ngày 04/02/2021, nguyên đơn bà Định Thị P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

[1.3] Đối với việc vắng mặt của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm, Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn là ông Lê H nhưng ông H đều vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về tình trạng hôn nhân: Xét cuộc hôn nhân giữa bà Đinh Thị P và ông Lê H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường V, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 153 năm 2001, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 17 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Lê H sống không chung thủy, ngoại tình với người phụ nữ khác, không còn sự quan tâm đến gia đình vợ con. Vợ chồng không chung sống từ năm 2017, không còn đi lại, quan tâm chăm sóc nhau. Trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bà P giữ yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Xét thấy, theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Tuy nhiên, từ năm 2017 vợ chồng bà P và ông H phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân vì ông H đã không còn chung thủy, ngoại tình với người phụ nữ khác. Từ lúc không còn sống chung đến nay, vợ chồng bà Phúc, ông H mạnh ai nấy sống, không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau và cũng không có ý định hàn gắn. Mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân của bà P ông H được ông Phạm Văn D, trưởng khu phố 8 phường V; Hội liên hiệp phụ nữ phường V xác nhận. Ông H biết việc bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng không tham gia tố tụng thể hiện ông H không có thiện chí và không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xét thấy hôn nhân giữa bà P và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P.

[2.2] Về con chung: Xét về yêu cầu nuôi con chung của bà P, Hội đồng xét xử xét thấy: Từ thời điểm vợ chồng không sống chung (năm 2017) đến nay bà P là người nuôi các cháu Lê Đinh C, Lê Đinh K, các cháu hiện nay có cuộc sống ổn định, được học hành và phát triển bình thường. Mặt khác, nguyện vọng của cháu C, cháu K muốn tiếp tục ở với mẹ; Xét thấy yêu cầu của bà P về nuôi con chung là phù hợp nên Hội đồng xét xử giao cháu Lê Đinh C và cháu Lê Đinh K cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên hòa giải và tại đơn xin xét xử vắng mặt, bà P không có yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Tài sản chung và nợ chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang-Tháp Chàm tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Đinh Thị P được ly hôn với ông Lê H.

2. Về con chung: Giao cho bà Đinh Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Đinh K, sinh ngày 05/6/2006 và Lê Đinh C, sinh ngày 31/10/2010. Ông Lê H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Đinh Thị P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) bà Đinh Thị P đã nộp theo biên lai thu tiền số 0022942 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Đinh Thị P đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 10/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về