Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 11 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 184/2022/TLST-HNGĐ ngày 12/11/2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1988, địa chỉ: thôn T, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)

2. Bị đơn: Chị Thân Thị Nh, sinh năm 1993, địa chỉ: thôn T, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/11/2021, bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Q trình bày:

Anh và chị Nh lấy nhau là tự nguyện, có được tự do tìm hiểu, hai gia đình có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán. Anh và chị Nh sống chung với nhau từ ngày 06/10/2009, năm 2010, sau khi sinh con đầu là cháu Nguyễn Thị Thu H, anh và chị Nh đi đăng ký kết hôn, đăng ký ngày 15/9/2010, tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Sau khi cưới vợ chồng ở chung cùng với gia đình nhà anh. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do chị Nh nói đi làm ở công ty nhưng thực chất là đi làm phục vụ trong các quán Karaoke, thường xuyên đi sớm về muộn, đi làm nhưng hàng tháng không có lương, không mang tiền về để chăm lo cho gia đình và các con. Chị Nh còn có quan hệ bất chính với nhiều người đàn ông khác, anh và gia đình anh phát hiện chị Nh sống chung với người đàn ông khác, nhưng vì con cái anh bỏ qua cho chị Nh cơ hội và động viên chị Nh về chung sống cùng với anh để nuôi dạy con cái. Chị Nh có về sống cùng với anh được một thời gian ngắn rồi chị Nh lại bỏ nhà đi, có những lần chị Nh bỏ đi cả tuần, thậm chí cả tháng không về, anh cũng không biết chị Nhàn đi đâu, làm gì, có lần anh phải đem tiền ra Hà Nội để chuộc chị Nh về. Từ tháng 5 năm 2020, chị Nh tiếp tục bỏ nhà đi, đi đâu anh không biết, anh có liên lạc với chị Nh qua Zalo, anh có động viên chị Nh về nhưng chị Nh không về, vợ chồng ly thân từ đó đến nay, anh không thể liên lạc được với chị Nh qua điện thoại, anh chỉ liên lạc với bố mẹ chị Nh và được biết sau khi bỏ đi khỏi nhà anh chị Nh có về nhà bố mẹ chị Nh sinh sống, gia đình chị Nh và gia đình anh có hòa giải nhiều lần để chị Nh về đoàn tụ cùng anh nhưng chị Nh vẫn không về. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nh.

Về con chung: Vợ chồng có con chung là cháu Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 05/8/2010; cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 24/8/2012; cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 09/5/2014 và cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 31/3/2016. Hiện anh đang làm kế toán tại Công ty H, thu nhập mỗi tháng từ 10.000.000 đồng đến 11.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, thời gian chung sống với gia đình anh, vợ chồng không có đóng góp công sức vào khối tài sản của gia đình anh, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng không vay nợ ai và không cho ai vay nợ.

Tại phiên tòa anh Quân trình bày: Tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho tôi được ly hôn với chị Nh, tôi nhận nuôi cả bốn con và không yêu cầu chị Nh cấp dưỡng nuôi con, tôi không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

- Tòa án đã tiến hành giao Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo hòa giải và các văn bản giấy tờ khác cho chị Thân Thị Nh do bà Thân Thị A là mẹ đẻ của chị Thân Thị Nh nhận thay và Tòa án niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng chị Nh không đến Tòa án để cung cấp quan điểm và hòa giải.

* Tại biên bản lấy lời khai của các cháu Nguyễn Thị Thu H, Nguyễn Tuấn Ah và Nguyễn Khánh L trình bày: Các cháu là con bố Nguyễn Văn Q và mẹ Thân Thị Nh, mẹ các cháu đi đâu đã lâu không ở chung cùng với bố và các cháu, nguyện vọng của các cháu khi Tòa án giải quyết ly hôn giữa bố mẹ các cháu, các cháu đều có nguyện vọng được ở với bố và ông bà nội vì bố các cháu là người chăm sóc các cháu từ bé đến bây giờ.

* Tài liệu Tòa án thu thập được:

+ Tại biên bản xác minh ngày 23/11/2021 ông Nguyễn Mạnh H là Công an N, huyện Yên Dũng cung cấp như sau: Qua kiểm tra sổ theo dõi đăng ký thường trú của thôn T, xã N, tại quyển số 4, trang 47 thể hiện: chị Thân Thị Nh, sinh năm 1993, nguyên quán: xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang, là con dâu của ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1965 (chủ hộ), là vợ anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1988, địa chỉ: thôn T, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chị Thân Thị Nh nhập khẩu ngày 24/5/2019, có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Từ khi nhập khẩu đến nay chị Nhàn chưa làm thủ tục cắt khẩu, chuyển khẩu, không khai báo tạm vắng, tạm trú.

+ Tại biên bản xác minh ngày 23/11/2021, bà Thân Thị K là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn Q cung cấp: Anh Nguyễn Văn Q và chị Thân Thị Nh chung sống với nhau từ năm 2009, đến tháng 8 năm 2010 mới đăng ký kết hôn, sau khi cưới anh Q và chị Nh về sinh sống cùng với gia đình bà. Quá trình chung sống giữa anh Q và chị Nh có phát sinh mâu thuẫn, hay cãi nhau, nguyên nhân mâu thuẫn do chị Nh không có việc làm ổn định, chị Nh làm công việc gì cũng không nói cho gia đình biết, gia đình không biết cụ thể công việc của chị Nh, chị Nhđi làm từ sáng đến tối mới về. Chị Nh thỉnh thoảng bỏ nhà đi, có khi một tuần, khi thì một tháng rồi lại về chung sống với anh Q. Vì thương các cháu còn nhỏ, gia đình và anh Q đã nhiều lần tha thứ cho chị Nh để chị Nhvề đoàn tụ với anh Q cùng nuôi dạy con cái. Từ tháng 5 năm 2020, chị Nh có nói với gia đình là đi làm Công ty nhưng từ đó đến nay không thấy chị Nh về, gia đình không liên lạc được với chị Nh chỉ liên lạc với mẹ chị Nh, nhưng gia đình chị Nhcũng không cung cấp địa chỉ hiện chị Nh ở đâu. Anh Q làm đơn ly hôn chị Nh, gia đình đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung anh Q, chị Nh có bốn con chung hiện đang sống cùng với gia đình tôi và anh Q. Khi ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Q được nuôi cả bốn cháu. Về tài sản chung: Thời gian anh Q, chị Nh chung sống với gia đình bà, anh Q, chị Nh không đóng góp gì vào khối tài sản chung của gia đình bà + Tại biên bản xác minh ngày 23/11/2021 ông Phùng Văn M tổ trưởng thôn T, xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Anh Nguyễn Văn Q và chị Thân Thị Nh có hộ khẩu tại địa phương do ông quản lý, từ khoảng giữa năm 2020, địa phương không thấy chị Nh sinh sống tại nhà anh Q, chị Nh đi đâu làm gì địa phương không nắm rõ. Nay anh Q làm đơn xin ly hôn chị Nh, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung, anh Q, chị Nh có bốn con chung hiện đang sống cùng với anh Q.

+ Tại biên bản xác minh ngày 24/11/2021 bà Thân Thị A là mẹ đẻ chị Thân Thị Nh cung cấp: Chị Thân Thị Nh là con gái bà, năm 2009 gia đình có tổ chức lễ cưới cho chị Nh và anh Nguyễn Văn Q, sau khi cưới chị Nh về nhà anh Q làm dâu và chung sống với gia đình nhà anh Q tại thôn T, xã N, huyện yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống chị Nh và anh Q có phát sinh mâu thuẫn hay không thì bà không được biết vì chị Nh không nói gì cho bà biết. Bà được biết chị Nh có mấy lần bỏ nhà anh Q đi, sau đó gia đình bà có động viên chị Nh và chị Nh có quay về đoàn tụ với anh Q. Khoảng tháng 5 năm 2020, gia đình bà không biết vì lý do gì chị Nh lại bỏ về ở cùng với bà một thời gian, sau đó chị Nh nói đi làm Công ty, bà có hỏi địa chỉ cụ thể thì chị Nh không nói, chị Nh có liên lạc với gia đình bà qua điện thoại. Mọi giấy tờ Tòa án gửi cho chị Nh bà đều nhận được, bà có thông báo bằng điện thoại cho chị Nh và động viên chị Nh về để giải quyết việc ly hôn, chị Nh có nói lại là sẽ thu xếp công việc để về để giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của anh Q. Nay anh Q làm đơn xin ly hôn chị Nh, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung anh Q, chị Nh có bốn con chung hiện đang sống cùng với anh Q, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Q được nuôi con.

+ Tại công văn số 29366/QLXVC-P5 ngày 02/12/2021 của Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an cung cấp: Thân Thị Nh, sinh năm 1993, không có thông tin xuất nhập cảnh tại Cục quản lý xuất nhập cảnh.

- Tòa án đã mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị Nh vắng mặt không có lý do.

- Ngày 21/01/2022, Tòa án đã hoãn phiên tòa vì bị đơn là chị Thân Thị Nh vắng mặt lần thứ nhất không có lý do.

- Tại phiên toà hôm nay, bị đơn là chị Thân Thị Nh tiếp tục vắng mặt không có lý do.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng phát biểu ý kiến:

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa tuân thủ đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Qvà xử cho anh Nguyễn Văn Q được ly hôn chị Thân Thị Nh. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 05/8/2010; cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 24/8/2012; cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 09/5/2014 và cháu Nguyễn Gia Bảo, sinh ngày 31/3/2016 cho anh Nguyễn Văn Q nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Thân Thị Nh không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh Q không yêu cầu. Về án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

- Kiến nghị, khắc phục vi phạm: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo lời khai của nguyên đơn và xác minh tại gia đình thì chị Thân Thị Nh có địa chỉ thôn T, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, hiện chị Nhàn đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương. Tòa án có Quyết định cung cấp chứng cứ yêu cầu gia đình chị Nh cung cấp địa chỉ của chị Nh nhưng gia đình chị Nh không cung cấp được địa chỉ của chị Nh. Tòa án có văn bản xác minh thông tin của chị Nh và được Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an cung cấp không có thông tin xuất nhập cảnh của chị Nh. Chị Nhàn đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương và không thông báo địa chỉ cho anh Q và gia đình biết là cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã giao toàn bộ giấy tờ và Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Gia đình chị Nh đã thông báo nội dung các văn bản Tòa án cho chị Nh được biết. Như vậy xác định chị Nh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng xét xử vắng mặt chị Nh là phù hợp với quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Q, chị Thân Thị Nh kết hôn ngày 15/9/2010 tại UBND xã N, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán của địa phương. Trước khi kết hôn hai bên có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn được Ủy ban nhân dân xã N, huyện Yên Dũng cấp giấy chứng nhận kết hôn. Hôn nhân giữa anh Q và chị Nh là tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Về quá trình chung sống của vợ chồng thì thấy: Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, từ năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Nh không trung thực trong công việc hàng ngày chị Nh làm, như chị Nh đi làm tại quán Karaoke nhưng chị Nh lại nói là đi làm Công ty, chị Nh có quan hệ ngoài tình với người đàn ông khác, đi làm chị Nh không đưa tiền để anh Q nuôi con, nhiều lần chị Nh bỏ nhà đi thuê phòng sống ở ngoài, không có trách nhiệm với chồng, gia đình chồng và các con. Tháng 5/2020, chị Nhbỏ đi không liên lạc gì với anh Q, vợ chồng ly thân từ đó đến nay không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Chị Nh có liên lạc với gia đình chị Nh, nhưng chị Nh không cho gia đình chị Nh biết địa chỉ của chị Nh đang sinh sống. Tòa án đã mở phiên hòa giải nhưng chị Nh không có mặt để tham gia hòa giải và không có mặt để tham gia các phiên tòa xét xử. Như vậy xác định chị Nh không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Q là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Q và chị Nh có 04 con chung là cháu Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 05/8/2010; cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 24/8/2012; cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 09/5/2014 và cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 31/3/2016. Khi ly hôn anh Q có nguyện vọng được nuôi cả bốn cháu thì thấy: Hiện các cháu đang chung sống với anh Q, anh Q có nguyện vọng được nuôi con, và các cháu Nguyễn Thị Thu H, Nguyễn Tuấn A và Nguyễn Khánh L đều có nguyện vọng được ở với anh Q, mặt khác chị Nh hiện đi làm ăn và sinh sống địa chỉ cụ thể ở đâu gia đình chị Nh cũng không biết địa chỉ và từ khi chị Nh bỏ đi chị Nh không quan tâm chăm sóc gì đối với các con chung. Để đảm bảo suộc sống sinh hoạt của các cháu được ổn định và theo nguyện vọng của các cháu, cần chấp nhận yêu cầu của anh Q là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

2.4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh Q đã nộp theo biên lai số 0009311 ngày 12/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Dũng.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về