Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BA RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 464/2023/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2024 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Đại Thủy T, sinh năm 1991. Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần Thanh H, sinh năm 1988. Hộ khẩu thường trú: Số nhà I, ấp T, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: Khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn - bà Trần Đại Thủy T trình bày:

Bà T và ông Trần Thanh H tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại UBND thị trấn P, huyện T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông H không chung thủy dẫn đến vợ chồng không tôn trọng lẫn nhau, tình cảm nhạt nhẽo. Nay bà T yêu cầu Toà giải quyết cho ly hôn với ông Trần Thanh H.

Về con chung: Bà và ông H có một con chung là Trần Thanh Thảo Q, sinh ngày 08/7/2017. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Bà T làm nhân viên lập kế hoạch tại Công ty TNHH N, mức thu thập mỗi tháng khoảng 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng). Thời gian làm việc giờ hành chính.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Quá trình tố tụng, bị đơn - ông Trần Thanh H trình bày như sau:

Ông H xác nhận có chung sống, đăng ký kết hôn và có con chung như bà T trình bày. Về mâu thuẫn vợ chồng: Quá trình chung sống giữa ông và bà T có xảy ra mâu thuẫn do ghen tuông dẫn đến vợ chồng cãi vã, căng thẳng, không hạnh phúc. Đối với yêu cầu ly hôn của bà T thì ông H không đồng ý, ông H mong muốn đoàn tụ vợ chồng. Về con chung: Trường hợp phải ly hôn thì ông đồng ý giao hai con chung cho bà T trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi, ông H không cấp dưỡng nuôi con. về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Tại phiên toà, ông H vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

Về pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vi phạm quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Về quan hệ hôn nhân: bà T được ly hôn với ông H. Về nuôi con chung và cấp dưỡng: Giao con chung Trần Thanh Thảo Q, sinh ngày 08/7/2017 cho bà T trực tiếp nuôi cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; ông H không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Trần Thanh H nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con; bị đơn có cư trú tại thị xã P nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ; tại phiên toà, ông H đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào các điều 28, 35, 39 và 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của đương sự và Giấy chứng nhận kết hôn số 130 do Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 14/8/2017 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định: Bà T và ông H tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa các bên là hợp pháp. Về tình trạng hôn nhân: Lời khai của bà T, ông H và kết quả xác minh tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường P đều xác định giữa bà T và ông H có mâu thuẫn vợ chồng. Xét thấy, mặc dù ông H cho rằng ông còn tình cảm với bà T và có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng nhưng lại không tham gia hoà giải, không tham gia phiên toà mà bỏ mặc quan hệ vợ chồng, bản thân ông H cũng không có biện pháp gì để vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa, mặc dù Hội đồng xét xử đã động viên đoàn tụ nhưng bà T cương quyết ly hôn. Xét thấy, tình cảm vợ chồng phải là sự tự nguyện và đến từ hai phía mới đảm bảo được hạnh phúc. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông H là có thật và đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T với ông H.

[2.2] Về nuôi con chung và cấp dưỡng: Căn cứ bản sao Trích lục khai sinh, có cơ sở để xác định: Bà T và ông H có một con chung là Trần Thanh Thảo Q, sinh ngày 08/7/2017. Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung của bà T thì thấy: Con chung Trần Thanh Thảo Q (chưa đủ 07 tuổi), là con gái cần có sự chăm sóc, gần gũi của người mẹ, bản thân bà T có việc làm, có thu nhập và thời gian chăm sóc con; mặt khác ông H cũng đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi khi ly hôn. Từ những phân tích trên đây, để đảm bảo cho sự phát triển về tinh thần cũng như quyền lợi mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao hai con chung cho bà T trực tiếp nuôi cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại các điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình. Do bà T không yêu cầu nên ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T và ông H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 227 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” của bà Trần Đại Thủy T đối với ông Trần Thanh H.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Đại Thủy T được ly hôn với ông Trần Thanh H.

Về nuôi con chung và cấp dưỡng: Giao con chung Trần Thanh Thảo Q, sinh ngày 08/7/2017 cho bà Trần Đại Thủy T trực tiếp nuôi cho đến khi con Trần Thanh Thảo Q đủ 18 tuổi. Ông Trần Thanh H không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

2. Về án phí: Bà Trần Đại Thủy T chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 2718 ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Bà Trần Đại Thủy T đã nộp xong án phí.

3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 02/02/2024), nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về