Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại Phòng xử án Toà án nhân dân huyện TY, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Nình A V– sinh năm 1988.

Nơi ĐKHKTT: thôn Khe Lục, xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở hiện nay: thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh.

Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: chị Nình Móc S – sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT: thôn Khe Lục, xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở hiện nay: thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh.

Vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2021, Toà án nhận ngày 12/01/2022, thụ lý ngày 17/01/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nình A V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Nình Móc S đăng ký kết hôn ngày 09/3/2011 tại Ủy ban nhân dân xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn chưa ai có vợ, có chồng.

Sau khi kết hôn, anh và chị S chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm về cách sống cũng như trong làm ăn kinh tế nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi, xúc phạm nhau, không còn sự chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Đến năm 2016, chị S bỏ đi làm ăn kinh tế; từ khi đi làm đến nay, chị S không về nhà nhưng thời gian gần đây chị S vẫn thường xuyên gọi điện thoại về cho các con nói chuyện. Tuy nhiên, chị S không nói cho anh và các con biết là đi làm gì và làm ở đâu, khi nào về. Sau đó anh nhiều lần đến nhà bố mẹ đẻ của chị S thì được biết, chị S thỉnh thoảng có gọi điện thoại về cho gia đình nhưng cũng không nói là làm gì và làm ở đâu, khi nào về.

Nay anh xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không cùng chung sống một thời gian dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị S.

Về con chung: Quá trình chung sống anh và chị S có 02 con chung là Nình Đại Phương N – sinh ngày 17/11/2011 và Nình Thị Thanh H – sinh ngày 14/4/2013. Khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi thành niên (đủ 18 tuổi), không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung: anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: anh V khai anh và chị S không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn – chị Nình Móc S, tại Biên bản xác minh ngày 04/3/2022, bà Lỷ Móc L là mẹ đẻ của chị Nình Móc S cung cấp thông tin: Quá trình chung sống vợ chồng giữa anh V và chị S, bà có biết anh chị có mâu thuẫn, bà cũng đã khuyên giải anh chị nhiều nhưng không có kết quả. Hiện nay chị S đang đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có gọi điện thoại về cho bà để hỏi thăm nhưng chị S không cho bà biết hiện nay đang làm gì và địa chỉ cụ thể ở đâu. Anh V có thông báo cho bà biết việc anh làm đơn khởi kiện ly hôn với chị S tại Tòa án nhân dân huyện TY, tỉnh Quảng Ninh, Tòa án đã thụ lý vụ án, sau đó bà đã thông báo lại cho chị S được biết. Do không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho chị S nên Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng như Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của chị S tuy nhiên chị S không đến Tòa án, không có lý do.

Tòa án đã đến địa chỉ cư trú của anh V và chị S để xác minh về mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân của anh chị. Tại Công an xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh và Trưởng thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY - bà Phạm Thị Hiền cung cấp thông tin: Từ năm 2012, anh V và chị S đến đăng ký tạm trú tại thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng do có khúc mắc nên từ năm 2016, chị S bỏ đi làm ăn kinh tế nhưng đi đâu, làm gì địa phương không nắm được. Tại công an xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh (nơi đăng ký hộ khẩu thường trú) cho biết: anh Nình A V và chị Nình Móc S có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Khe Lục, xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên từ tháng 7/2012, anh V và chị S đã chuyển tạm trú về thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh sinh sống từ đó cho đến nay. Từ năm 2016 đến nay chị S không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì địa phương không nắm được.

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 08/02/2022 của cháu Nình Đại Phương N, sinh ngày 17/11/2011 và cháu Nình Thị Thanh H, sinh ngày 14/4/2013 là con chung của anh V và chị S thể hiện: Từ khi chị S đi làm ăn kinh tế thỉnh thoảng vẫn gọi điện thoại về nhưng chị S không nói là đang làm gì, làm ở đâu và khi nào về và nguyện vọng của các cháu mong muốn được ở cùng với anh V.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY tại phiên tòa:

- Về tố tụng: trong quá trình từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt nguyên đơn cũng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; còn đối với bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật về việc có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp công khai chứng cứ cũng như không có quan điểm giải quyết vụ án, đã vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Tòa án giải quyết cho anh Nình A Vđược ly hôn chị Nình Móc S và giao con chung Nình Đại Phương N và Nình Thị Thanh H cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, chị S không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh V.

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của các đương sự, đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng và sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

[1.1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn – anh Nình A V khởi kiện về việc ly hôn đối với bị đơn – chị Nình Móc S thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TY theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự do đó việc Tòa án nhân dân huyện TY thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định của pháp luật.

[1.2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:

Về sự vắng mặt của nguyên đơn tại phiên tòa: trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đều có mặt và thực hiện đầy đủ quy định theo trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Việc xét xử vụ án khi nguyên đơn vắng mặt đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn: sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho bị đơn (chị S) theo quy định tại Chương X của Bộ luật Tố tụng dân sự như Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và đã xác minh tại địa phương nơi bị đơn sinh sống. Tuy nhiên, chị S không có phản hồi, không đến Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị đơn là thể hiện việc chị cố tình giấu địa chỉ, gây khó khăn cho việc giải quyết ly hôn, cố tình không chấp hành pháp luật. Do vậy, việc xét xử vắng mặt bị đơn không ảnh hưởng đến tính khách quan khi giải quyết vụ án, đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và các quy định khác có liên quan của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về ly hôn: quan hệ hôn nhân giữa anh Nình A V và chị Nình Móc S là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh V, Hội đồng xét xử thấy: mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh V và chị S phát sinh từ năm 2016, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát chủ yếu từ việc vợ chồng có quan điểm sống không hợp nhau, vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã. Từ năm 2016, chị S bỏ đi làm ăn kinh tế cho đến nay, không thông báo cho gia đình cũng như chính quyền địa phương biết chị đang làm gì, ở đâu và khi nào về.

Còn đối với chị S, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết Thông báo phiên hòa giải tại nơi cư trú của chị S nhưng chị S đều vắng mặt không có lý do. Việc Tòa án triệu tập chị S để hòa giải cho hai vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị S đều không đến, nên Tòa án không thể hòa giải để vợ chồng đoàn tụ được đồng thời anh V có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Như vậy, thấy rằng việc không đến Tòa án để hòa giải của chị S đã thể hiện việc chị S không có thiện chí tham gia hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, mặt khác còn thể hiện ý thức chấp hành pháp luật không tốt, cố tình trốn tránh, giấu địa chỉ, gây khó khăn cho việc giải quyết ly hôn.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã đến địa chỉ cư trú của chị S tại thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh và xã ĐD, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh để xác minh về mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân của anh chị và được thôn trưởng và chính quyền địa phương cung cấp thông tin: Sau khi kết hôn, anh V và chị S về chung sống và đăng ký hộ khẩu thường trú cùng với bố mẹ đẻ của anh V được khoảng 01 năm. Đến tháng 7/2012, anh V và chị S chuyển tạm trú về thôn Hội Phố, xã ĐH, huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn nên từ năm 2016, chị S bỏ đi làm ăn kinh tế, không có mặt tại nơi cư trú, đi đâu, làm gì địa phương không nắm được.

Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh V và chị S là có mâu thuẫn, những mâu thuẫn này đã phát sinh từ lâu, vợ chồng đã không chung sống cùng nhau một thời gian dài, tình cảm không còn, anh V làm đơn xin ly hôn. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh V và chị S đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau, đời sống chung vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình thấy đã đủ căn cứ cho ly hôn.

[3] Về tranh chấp nuôi con thì thấy: anh V và chị S có 02 con chung tên là Nình Đại Phương N, sinh ngày 17/11/2011 và Nình Thị Thanh H, sinh ngày 14/4/2013. Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án anh V đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy việc giao con cho ai nuôi cần phải xét nguyện vọng của con và điều kiện để nuôi con thì thấy: từ khi anh V và chị S sống ly thân (năm 2016), hai cháu N và H vẫn sinh sống cùng anh V và được anh V chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. Đối với chị S đã được Toà án triệu tập đến Toà án làm việc, đến phiên toà xét xử nhưng chị S không đến, không có quan điểm về việc nuôi con khi ly hôn. Việc không đến Tòa án giải quyết vụ án của chị S thể hiện việc không chấp hành pháp luật, nên việc giao con chung cho chị S là không đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Xét thấy yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung đến khi thành niên và không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con chung của anh V là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của hai cháu N và H nên chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: anh Nình A V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228; Điều 271; 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nình A V.

1. Về quan hệ hôn nhân: anh Nình A V được ly hôn chị Nình Móc S.

2. Về con chung: giao con chung Nình Đại Phương N, sinh ngày 17/11/2011 và Nình Thị Thanh H, sinh ngày 14/4/2013 cho anh Nình A V trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).

Chị Nình Móc S không phải cấp dưỡng nuôi con chung; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: anh Nình A V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0012045 ngày 12/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TY, tỉnh Quảng Ninh. Anh V đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về