Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 219/2021/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021 về việc “ly hôn, trông chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số: 02A/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà N.T.Ng, sinh năm 1980;

Đa chỉ: số , ấp K, xã P, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Ông Đ.V.L, sinh năm 1969;

Đa chỉ: ấp A, xã P, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà N.T.Ng trình bày như sau:

Bà và ông Đ.V.L do mai mối, tiến đến hôn nhân vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn ngày 15/10/2005. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Do tính tình không còn phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2020 tới nay. Thời gian qua vợ chồng bà cũng không còn tới lui chăm sóc cho nhau, không có biện pháp hàn gắn. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Đ.V.L; Về con chung: vợ chồng bà có 04 con chung tên V, sinh ngày 08/9/1999, K, sinh ngày 28/8/2000 (hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động), H và D, cùng sinh ngày 01/11/2009. Hiện nay, cháu Hà và Duy đang sống với bà và bà yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Hà và cháu Duy, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung và nợ chung: ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do hiện nay bà đang sinh sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, việc xin nghỉ và đi lại khó khăn nên bà có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông L đến để tiến hành hòa giải nhưng ông L vắng mặt không có lý do và không có lời khai hay ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của bà Ng.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật; Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên đã từ bỏ quyền của mình, Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng được ly hôn ông L. Về con chung: giao 02 cháu H và D, cùng sinh ngày 01/11/2009 cho bà Ng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, ông L không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Bà Ng yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Bà N.T.Ng (là nguyên đơn trong vụ án) có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà Ng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Ông Đ.V.L (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên Toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà Ng và ông L kết hôn với nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn ngày 15/10/2005 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng bà Ng và ông L phát sinh mâu thuẫn, bà Ng xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, bà Ng cho rằng do tính tình không còn phù hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, hai vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2020 tới nay. Xét thấy, thời gian qua bà Ng và ông L đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau nữa, hôn nhân giữa bà Ng và ông L thực tế đã không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của bà Ng được ly hôn với ông L.

[2.2] Về con chung: Bà Ng xác định trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ông bà có 04 con chung tên V, sinh ngày 08/9/1999, K, sinh ngày 28/8/2000 (hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động), H và D, cùng sinh ngày 01/11/2009. Xét thấy, cháu Hà và cháu Duy đang được bà Ng chăm sóc, nuôi dưỡng và 02 cháu cũng có nguyện vọng được sống với bà Ng. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của 02 cháu, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho 02 cháu, giúp 02 cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao 02 cháu Hà và cháu Duy cho bà Ng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên bà Ng không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Bà Ng phải tạo điều kiện cho ông L được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Ng không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa bà Ng và ông L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Bà Ng phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí bà Ng đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.T.Ng.

* Về hôn nhân: Bà N.T.Ng được ly hôn với ông Đ.V.L.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 41/KH-UBND, quyển số I/2005 do Ủy ban nhân dân xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 15/10/2005 cho bà N.T.Ng và ông Đ.V.L không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

* Về con chung: Giao 02 cháu H, sinh ngày 01/11/2009 và D, sinh ngày 01/11/2009 cho bà N.T.Ng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: Bà Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này giữa bà Ng và ông L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

* Về án phí sơ thẩm: Bà N.T.Ng phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008531 ngày 25 tháng 05 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Ông Đ.V.L không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Bà Ng và ông L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về