Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH B

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20/01/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2020/TLST - HNGĐ, ngày 12/10/2020 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST - DS, ngày 02/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2020/QĐST - HNGĐ, ngày 22/12/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Biện Văn Ch, sinh năm 1983 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện T, tỉnh B.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn L, xã Ng, huyện T, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Quan hệ về hôn nhân: Anh Biện Văn Ch kết hôn cùng chị Nguyễn Thị Th vào ngày 06/9/2009. Trước khi cưới đôi bên có được tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T. Sau ngày cưới theo phong tục tập quán của địa phương chị Th về chung sống cùng anh Ch ngay. Thời gian đầu vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc.

Theo anh Ch trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10/2012, nguyên nhân do kinh tế khó khăn, con nhỏ ốm không có tiền chữa bệnh nên vợ chồng đã xảy ra việc đánh cãi chửi nhau. Do chán nản nên chị Th đã bỏ về nhà đẻ ở hôm trước thì đã đuổi anh về. Sau một thời gian sau anh có đến nhà chị Th để đón chị Th về đoàn tụ nhưng gia đình chị Th không tiếp và đã đuổi anh về. Sau đó qua tìm hiểu anh được biết sau đó chị Th đi làm ăn ở Lạng Sơn; địa chỉ và nơi làm việc cụ thể của chị Th ở Lạng Sơn thì anh không biết mà anh chỉ biết chị Th vẫn thường xuyên liên lạc bằng điện thoại về cho bố mẹ chị Thương. Nay anh xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, thời gian sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ đã hơn 08 năm nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Th càng sớm càng tốt.

Về con chung: Theo anh Ch trình bày, vợ chồng anh có 02 con chung là Biện Thị Ngọc Á, sinh ngày 29/8/2010 và Biện Thị Huyền A, sinh ngày 14/5/2012, hiện nay cả hai con đang do anh nuôi dưỡng. Ly hôn anh nhận nuôi cả hai con đến tuổi trưởng thành; cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài sản, nợ chung, công sức và ruộng đất nông nghiệp: Anh Ch trình bày, anh không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán; Hội đồng xét xử và thư ký phiên toà đã tuân theo đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý, xây dựng hồ sơ vụ án, tổ chức hòa giải và điều hành phiên tòa.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi vụ án thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không hiện đúng các quy định tại các Điều 70,72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Những yêu cầu, kiến nghị cần khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích đánh giá đại diện VKS đề nghị HĐXX: Áp dụng Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51,53,56,58,81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Đề nghị HĐXX:

- Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Biện Văn Ch được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th.

- Về con chung: Giao hai con là Biện Thị Ngọc Á, sinh ngày 29/8/2010 và Biện Thị Huyền A, sinh ngày 14/5/2012 cho anh Ch trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cấp dưỡng nuôi con không đề cập xem xét.

- Về án phí: Anh Biện Văn Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Trong quá trình giải quyết vụ án, do chị Th đi làm ăn ở Lạng Sơn chị không cho anh Ch và gia đình chị Th biết địa chỉ nơi ở, nơi làm việc mà chị Th chỉ thường xuyên liên lạc cho gia đình chị bằng điện thoại. Toà án đã hai lần yêu cầu gia đình chị Th cung cấp địa chỉ nơi ở hay nơi làm việc của chị Th, nhưng do chị Th không cho gia đình biết nên gia đình chị Th không cung cấp cho Toà án được. Do vậy, Toà án đã phải tiến hành tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng cho chị Th thông qua người thân trong gia đình chị. Xét thấy, chị Th là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đồng thời Toà án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo luật định nhưng chị Th vẫn vắng mặt, cố tình giấu địa chỉ, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, không có lý do chính đáng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là chị Nguyễn Thị Th theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 40 của Bộ luật Dân sự. Từ những nội dung như trên, có đủ cơ sở để khẳng định Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn tố tụng, đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp của việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đối với bị đơn là chị Nguyễn Thị Th nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cũng như tạo điều kiện để chị Th thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Biện Văn Ch kết hôn cùng chị Nguyễn Thị Th vào ngày 06/9/2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện T, tỉnh B theo đúng quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa anh Ch và chị Th là hợp pháp. Sau khi cưới theo phong tục tập quán của địa phương, chị Th về chung sống cùng anh Ch ngay. Quá trình chung sống đến tháng 10/2012 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do con ốm, kinh tế khó khăn không có tiền chữa bệnh cho con nên vợ chồng đã đánh cãi nhau và chị Th đã bỏ về nhà đẻ ở và sau chị Th đã theo người quen đi làm ăn ở Lạng Sơn không về chung sống cùng anh Ch nữa. Nay anh Ch xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, thời gian vợ chồng sống ly thân chấm dứt mọi quan hệ đã trên 08 năm nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Th. Qua xác minh tại UBND xã N huyện T, Trưởng thôn L và bố mẹ đẻ chị Th đều xác định: Mâu thuẫn vợ chồng anh Ch chị Th đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ. Mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án, gia đình chị Th đã tống đạt và giao thông báo các văn bản tố tụng cho chị Th. Chị Th biết nhưng chị Th vẫn cố tình giấu địa chỉ, không khai báo, không tham gia phiên hòa giải. Điều này chứng tỏ chị Th cũng không tha thiết tìm kiếm biện pháp để cải thiện tình trạng hôn nhân với anh Ch. Từ những căn cứ như đã nêu ở trên, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa anh Ch chị Th đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Ch và xử cho anh Ch được ly hôn chị Th là đúng với các quy định của pháp luật, phù hợp với thực tế cuộc sống.

Về con chung: Xác nhận anh Ch chị Th có 02 con chung là Biện Thị Ngọc Á, sinh ngày 29/8/2010 và Biện Thị Huyền A, sinh ngày 14/5/2012. Ly hôn anh Ch nhận nuôi cả hai con và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu Á và cháu A đang do anh Ch trực tiếp nuôi dưỡng, hiện tại chị Th không có mặt ở địa phương, mặt khác cả hai cháu Á và cháu A đều có nguyện vọng được ở với anh Ch. Do vậy, để đảm bảo cuộc sống, học tập và sự phát triển bình thường của các cháu, HĐXX cần giao cháu Á và cháu A cho anh Ch được tiếp tục nuôi dưỡng; chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Do anh Ch không yêu cầu Toà án xem xét về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét là phù hợp các Điều 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về tài sản, nợ chung, ruộng đất nông nghiệp và công sức: Do anh Biện Văn Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 144, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố Tụng dân sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Anh Biện Văn Ch là nguyên đơn, nên phải nộp án phí sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51,56, 58, 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án.

- Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Biện Văn Ch được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th.

- Về con chung: Giao hai con là Biện Thị Ngọc Á, sinh ngày 29/8/2010 và Biện Thị Huyền A, sinh ngày 14/5/2012 cho anh Ch được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cấp dưỡng nuôi con không đề cập xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Anh Biện Văn Ch phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh Ch đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên lai số: AA/2020/0003608 ngày 12/10/2020. Xác nhận anh Biện Văn Ch đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Ch có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Th vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bán án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Thành (cũ) - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về