Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 224/2021/TLST-HNGĐ, ngày 20/10/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/02/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Trang N, sinh năm 1993 - có mặt. Nơi đăng ký hộ khẩu: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Ninh Thuận. Nơi thường trú: thôn M, xã B, huyện C, tỉnh Ninh Thuận.

2. Bị đơn: ông Nguyễn Hoàng AL, sinh năm 1992 – xin vắng mặt.

Nơi đăng ký hộ khẩu và thường trú: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình tố tụng và tại phiên toà nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trang N trình bày:

Bà và ông Nguyễn Hoàng AL tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải theo giấy Chứng nhận kết hôn số: 77/Q01 ngày 07/8/2017.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc tại gia đình nhà ông AL ở thôn M, xã B sau đó chuyển về sinh sống tại gia đình nhà bà ở thôn A, xã B cho đến tháng 4 năm 2020 xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, ông AL đánh bạc nhiều lần bà có khuyên nhủ nhưng ông vẫn không từ bỏ, sau đó vợ chồng cải nhau, ông AL bỏ về nhà cha mẹ ruột ở M, B sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2021 cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng AL.

Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng sinh được cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn bà xin nuôi cháu Nam Y và không yêu cầu ông AL cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt bị đơn Nguyễn Hoàng AL, nhưng quá trình Tòa án thụ lý vụ án bị đơn ông Nguyễn Hoàng AL trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Trang N tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải theo giấy Chứng nhận kết hôn số: 77/Q01 ngày 07/8/2017 và ông thừa nhận nguyên nhân vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn như lời trình bày của bà Nh là đúng, nhưng ông không đồng ý ly hôn theo yêu cầu bà Nhi, vì nếu vợ chồng ly hôn thì sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của cháu Nguyễn Hoàng Nam Y.

Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng sinh được cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn ông xin nuôi cháu Nam Y và không yêu cầu bà Nhi phải cấp dưỡng.

Tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Hải tại phiên tòa, cụ thể như sau:

Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của đương sự: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn xin xét xử vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn.

Quan điểm giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Trang N và ông Nguyễn Hoàng AL tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải đây là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2021 cho đến nay, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Trang N.

- Về con chung: quá trình sống chung vợ chồng sinh được cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn bà Nhi xin trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nam Y và không yêu cầu ông AL phải cấp dưỡng.

Hiện nay cháu Nam Y đang ở với bà Nhvà nguyện vọng của bà Nh cũng xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu, vì vậy giao cho bà Nh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và ông AL không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nh không yêu cầu.

- Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân gia đình; khoản 4 Điều 147 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trang N với bị đơn ông Nguyễn Hoàng AL.

Về con chung: giao cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018 cho bà Nhi trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ông AL không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nh không yêu cầu.

Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: bà Nguyễn Thị Trang N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Nguyễn Thị Trang N có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận giải quyết việc hôn nhân của bà với ông Nguyễn Hoàng AL theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự: vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: ông Nguyễn Hoàng AL xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị Trang N và ông Nguyễn Hoàng AL tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện từ năm 2017 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận đây là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống hiện nay hai người không còn sống chung với nhau. Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Nhi ông AL ngày 23/02/2022, địa phương cho biết: vợ chồng bà Nh ông AL sống không hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2021 cho đến nay.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên bà Nh có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng AL. Vì vậy, theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình việc bà Nhi đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với ông AL là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nh được ly hôn ông AL.

[3] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng sinh được cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn bà Nh xin trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nam Y và không yêu cầu ông AL phải cấp dưỡng.

Hiện nay cháu Nguyễn Hoàng Nam Y đang ở với bà Nhi, tại bút lục 14 ông AL khai nếu chị Nh cương quyết ly hôn ông yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nam Y.

Hội đồng xét thấy hiện nay ông AL làm nghề tự do thu nhập không ổn định, thường xuyên đi làm xa, chưa có nơi ở và hơn nữa từ khi sinh ra cho đến nay cháu Nguyễn Hoàng Nam Y ở với bà Nh, vì vậy Hội đồng xét xử, xét thấy nên giao cháu Nam Y cho bà Nhi trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp, ông AL không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nh không yêu cầu.

[4] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Nguyễn Thị Trang N phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị Trang N được ly hôn ông Nguyễn Hoàng AL.

2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Hoàng Nam Y, sinh ngày 30/11/2018 cho bà Nguyễn Thị Trang N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ông Nguyễn Hoàng AL không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nhi không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

4. Về án phí: bà Nguyễn Thị Trang N phải nộp 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng mà bà Nhi đã nộp theo biên lai số 0003228 ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Bà Nguyễn Thị Trang N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn Nguyễn Thị Trang N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 25/3/2022. Riêng bị đơn Nguyễn Hoàng AL vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về