Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 86/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 86/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 20 21 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 30/2021/TLST-HNGĐ ngày 2 2 tháng 3 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30 /2021/QĐXX-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 491/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn Quyết T, xã Tân H, huyện Hương H, tỉnh Quảng Trị. Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn: Anh Lê Đức Th, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn Thuỷ Kh, xã Chi Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 23/02/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

- Về tình cảm: Giữa chị và bị đơn anh Lê Đức Th kết hôn với nhau vào ngày 21 tháng 10 năm 2016 tại UBND xã Chi Kh, huyện Con Cuông, tinh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến tháng 9/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau, đánh đập nhau. Nguyên nhân là do anh Th ngoại tình, tính tình gia trưởng, không quan tâm chăm sóc vợ con. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, vì vậy mà từ tháng 6/2018 cho đến nay vợ chồng chị không còn sống chung với nhau nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với bị đơn anh Lê Đức Th.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Lê Chấn Ph, sinh ngày 19/9/2017. Hiện nay cháu Ph đang sống với chị tại thôn Quyết T, xã Tân H, huyện Hương H, tỉnh Quảng Trị. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị và anh Lê Đức Th thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng chị không vay nợ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, bị đơn anh Lang Văn Vũ vắng mặt mặc dầu đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Toà án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình: Về hôn nhân: chấp nhận đơn ly hôn của chị Trần Thị L. Buộc chị Trần Thị L và anh Lê Đức Th chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con: giao con chung Lê Chấn Ph cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph trưởng thành, tạm hoan việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê Đức Th; Về tài sản: chị Trần Thị L và anh Lê Đức Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; Về án phí: chị Trần Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn: bị đơn hiện cư trú tại thôn Thuỷ Kh, xã Chi Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên toà nguyên đơn chị Trần Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Lê Đức Th đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227, 228 và 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ. Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã Chi Kh, huyện Con Cuông là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét chị Trần Thị L và anh Lê Đức Th đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 10 năm 2016 tại UBND xã Chi Kh, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân giữ chị Lvà anh Th là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc cho đến tháng 9/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị L nguyên nhân là do anh Th ngoại tình, tính tình gia trưởng, không quan tâm chăm sóc vợ con. Vì vậy mà hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chị L và anh Th đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Tại phiên tòa anh Th vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị L và anh Th thường xuyên xẩy ra mâu thuân. Vì vậy mà hai vợ chồng đã không còn sống chung với nhau nữa.

Xét thấy, giữa chị L và anh Th mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Lê Đức Th.

Về con chung: Chị L và anh Th có một con chung tên là Lê Chấn Ph, sinh ngày 19/9/2017. Quá trình giải quyết vụ kiện quá trình giải quyết vụ kiện và trong đơn xin xét xử vắng mặt chị vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng tiền nuôi con.

Xét thấy khi cha, mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về vật chất lẫn tinh thần. Như vậy nguyện vọng của chị L là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của cha mẹ dành cho con, hơn nữa hiện nay cháu Ph đang còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ. Mặt khác qua xác minh tại địa phương thấy rằng, hiện nay anh Th không có mặt ở địa phương và cũng không quan tâm chăm sóc đến con nên việc giao con cho anh Th nuôi dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt cho con. Vì vậy để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần cần chấp nhận giao con chung là Lê Chấn Ph cho chị Trần Thị L trưc tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Th do chị L không yêu cầu.

Về tài sản chung: Do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207, 227, 228, 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Lê Đức Th.

- Về con chung: Giao con chung Lê Chấn Ph, sinh ngày 19/9/2017 cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ph tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê Đức Th do chị Trần Thị L không yêu cầu.

Anh Th có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh Th lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Chị L cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002375 ngày 22 tháng 3 năm 2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 86/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:86/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về