Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 162/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 113/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà L. Địa chỉ: Ấp A1, xã B1, huyện C1, tỉnh Hậu Giang.

(vắng mặt, có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông N. Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà L trình bày: Bà L và ông N tự nguyện kết hôn vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B1, huyện C1, tỉnh Hậu Giang ngày 11/5/2012. Trong quá trình chung sống, hai người thường xuyên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, hai người đã ly thân gần 03 năm nay. Trong thời kỳ hôn nhân, hai người có 01 người con chung là cháu K sinh ngày 26/01/2012, hiện đang sống chung với bên ngoại.

Nay bà L yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Về hôn nhân: Bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà L được ly hôn với ông N.

+ Về con chung: Sau khi ly hôn, con chung có muốn sống cùng với ai thì xét theo nguyện vọng của con; không yêu cầu giải quyết về vấn đề cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bà L ở xa và bận nhiều công việc, đồng thời ông N cũng cố tình lánh mặt để gây khó dễ cho bà L trong việc giải quyết ly hôn, nên bà L đề nghị Tòa án cho phép bà L được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm cũng như trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

- Bị đơn ông N: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông N nhưng ông N không có mặt tham gia tố tụng theo các giấy triệu tập của Tòa án và cũng không có ý kiến trình bày hay yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà L vắng mặt nhưng trong văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt thì bà L vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo nội dung yêu cầu khởi kiện, về hôn nhân, bà L yêu cầu được ly hôn với ông N; về con chung, bà L yêu cầu giải quyết giao con chung là cháu K sinh ngày 26/01/2012 cho bà L hoặc ông N được trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu K, không yêu cầu giải quyết về vấn đề cấp dưỡng; về tài sản chung, nợ chung, bà L trình bày không có và không yêu cầu giải quyết. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Ông N là bị đơn, có địa chỉ cư trú tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bà L vắng mặt nhưng có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; ông N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, việc vắng mặt là do ông N không hợp tác với Tòa án, từ chối nhận tất cả các giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nên ông N đã tự từ bỏ quyền được tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm của mình và trường hợp này được xem là ông N vắng mặt không lý do và không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; việc vắng mặt của người tham gia tố tụng cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông N là những người có đủ điều kiện kết hôn, hai người đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B1, huyện C1, tỉnh Hậu Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 11/5/2012, nên quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông N là hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án, bà L trình bày trong quá trình chung sống, hai người thường xuyên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, hai người đã ly thân gần 03 năm nay. Tại Biên bản lấy khai ngày 12/5/2022, ông T (là cha ruột của bà L và là cha vợ của ông N) xác nhận: Trước đây bà L và ông N sống chung với nhau, sau đó hai người phát sinh mâu thuẫn bà L cùng với cháu K về sống tại nhà của vợ chồng ông T từ thời điểm đó cho đến nay, còn ông N sinh sống ở nhà mẹ ruột của ông N thuộc ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nguyên nhân bà L và ông N mâu thuẫn thì bà L cũng có kể sơ lược cho ông T nghe, do vợ chồng không có tiếng nói chung, ông N không có chăm lo cho vợ con, bà L và ông N cũng có nhiều lần cãi nhau. Qua xác minh thực tế thì hiện nay bà L và ông N không sống chung với nhau, mỗi người sống ở một nơi. Điều này cho thấy việc giữa bà L và ông N có phát sinh mâu thuẫn vợ chồng theo như lời trình bày của bà L là sự việc có thật, do không khắc phục được mâu thuẫn vợ chồng nên hai người đã sống ly thân với nhau từ khoảng 03 năm trước cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, mặc dù ông N biết được việc bà L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông N nhưng trong những lần Tòa án mời hòa giải thì ông N đều vắng mặt, từ đó mà Tòa án đã không tiến hành hòa giải được; giữa bà L và ông N cũng không tìm ra được cách thức để hàn gắn tình cảm và khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng có thể đoàn tụ với nhau.

[5] Như vậy, việc vợ chồng bà L và ông N phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân với nhau từ khoảng 03 năm trước cho đến nay, mỗi người sống ở một nơi và không còn tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cũng như thực hiện các quyền, nghĩa vụ khác của vợ chồng, mặc dù đã được Tòa án hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không hàn gắn được cho thấy quan hệ hôn nhân giữa hai người đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hiện nay, bà L vẫn kiên quyết yêu cầu được ly hôn với ông N. Vì vậy, việc bà L yêu cầu được ly hôn với ông N là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và giải quyết cho bà L được ly hôn với ông N.

[6] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà L và ông N có với nhau 01 người con chung là cháu K sinh ngày 26/01/2012. Hiện nay, cháu K đang sống cùng với bà L cùng cha mẹ bà L và do bà L cùng cha mẹ bà L trực tiếp nuôi dưỡng; bà L có đủ khả năng để trực tiếp nuôi dưỡng cháu K; cháu K cũng có nguyện vọng được sống chung với bà L; việc tiếp tục giao cháu K cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu K và trên cơ sở xem xét nguyện vọng của cháu K, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K của bà L và giải quyết giao cháu K cho bà L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông N được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K, không ai được cản trở ông N thực hiện các quyền này. Ông N không được lạm dụng việc thăm nom cháu K để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K của bà L. Trường hợp ông N có các hành vi này thì bà L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom cháu K của ông N. Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi con có thể được Tòa án quyết định thay đổi theo quy định của pháp luật.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi cháu K, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Bà L không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí sơ thẩm: Bà L phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền 300.000đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà L được ly hôn với ông N. (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 68, ngày đăng ký: 11/5/2012, do Ủy ban nhân dân xã B1, huyện C1, tỉnh Hậu Giang cấp)

1.2. Về con chung: Giao con chung là cháu K sinh ngày 26/01/2012 cho bà L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

- Ông N được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K, không ai được cản trở ông N thực hiện các quyền này.

- Ông N không được lạm dụng việc thăm nom cháu K để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K của bà L. Trường hợp ông N có các hành vi này thì bà L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom cháu K của ông N theo quy định của pháp luật.

- Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi cháu K có thể được Tòa án quyết định thay đổi theo quy định của pháp luật.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi cháu K, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

1.4. Về tài sản chung và nợ chung: Bà L trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

1.5. Về cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: Bà L không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà L phải chịu án phí sơ thẩm với số tiền là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm mà bà L đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003814, ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà L đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về