Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 36/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại Phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 662/2022/TLST- HNGĐ ngày 15/12/2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/5/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Đi, sinh năm 1998.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn Hu, sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT: Tập thể Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh. Địa chỉ: Tổ 4, khu 6, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Đi và anh Nguyễn Tuấn Hu đăng ký kết hôn vào ngày 21/12/2019 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh nhưng trước đó gần một năm, anh chị đã chung sống với nhau. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu. Khi mới lấy nhau cuộc sống khó khăn nhưng vẫn êm ấm, hạnh phúc nhưng được một thời gian thì vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau. Nguyên nhân do anh Hu làm việc xa nhà không hiểu, tin tưởng vợ. Ngoài ra, từ phía gia đình nhà chồng không thông cảm, tôn trọng, dùng những lời lẽ xúc phạm chị Đi. Đến tháng 3/2020 chị Đi đã về Bình Định để sinh con. Sau khi sinh con khoảng được 04 tháng thì chị Đi quay về gia đình nhà chồng tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục chung sống nhưng sau một tháng giữa chị Đi, anh Hu và gia đình anh Hu lại xảy ra mâu thuẫn mà không hòa giải được. Đến khoảng cuối năm 2021, chị Đi đưa con về quê ngoại Bình Định sinh sống và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Chị Đi thấy rằng giữa chị và anh Hu không còn tình cảm, không thể hàn gắn nên đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Hu.

Về nuôi con chung: Qúa trình chung sống chị Đi và anh Hu có một con chung là cháu Nguyễn Tuấn A sinh ngày 27/03/2020. Chị Đi đề nghị được trực tiếp nuôi con chung. Đối với phần cấp dưỡng cho con chung tùy vào khả năng của anh Hu, Tòa án xem xét quyết định.

Về tài sản chung: Chị Đi và anh Hu không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Qúa trình giải quyết vụ án, tại bản tự khai bị đơn anh Nguyễn Tuấn Hu có quan điểm:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Tuấn Hu đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Đi.

Về con chung: Anh Hu đồng ý cho chị Đi nuôi cháu Nguyễn Tuấn A vì cháu chưa đủ 36 tháng tuổi, đến khi cháu đủ 36 tháng thì anh Hu và chị Đi sẽ thỏa thuận lại việc nuôi con. Do điều kiện kinh tế hiện nay anh Hu còn khó khăn nên mỗi tháng anh sẽ cấp dưỡng cho con chung với số tiền là 1.000.000đồng đến khi con chung thành niên.

Về tài sản chung: Anh Hu và chị Đi không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

Ngoài ra, anh Hu có đề nghị vì lý do công tác và bệnh dịch covid19 đi lại khó khăn nên xin được giải quyết vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa.

Tại biên bản xác minh ngày 19/4/2022 về nguyên nhân mâu thuẫn của chị Đi và anh Hu, đại diện của tổ dân khu phố nơi anh chị từng chung sống cung cấp thông tin: Địa phương không nắm rõ được thời điểm mà anh chị từng chung sống tại Q, chị Đi và anh Hu không yêu cầu chính quyền địa phương hòa giải nên không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi và bị đơn anh Nguyễn Tuấn Hu có đơn xin xử vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị được giữ nguyên quan điểm giải quyết vụ án.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long phát biểu ý kiến:

Về pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự đã thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử sự tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Xác định mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn. Giao con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2020 cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (đủ18 tuổi), bị đơn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung 1.000.0000đồng/ tháng. Về tài sản chung đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của các đương sự, đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, đây là quan hệ pháp luật dân sự . Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi và bị đơn anh Nguyễn Tuấn Hu có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định.

[2] Về nội dung cần giải quyết của vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi và bị đơn Nguyễn Tuấn Hu đăng ký kết hôn ngày 21/12/2019 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh trên cở sở hai bên cùng tự nguyện. Vì vậy, xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Đi và anh Hu là hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Sau khi kết hôn, chị Đi và anh Hu chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2021 thì vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân từ việc vợ chồng thiếu sự chia sẻ dẫn đến không thể khắc phục, hóa giải được mâu thuẫn trong gia đình. Từ đó, quan hệ vợ chồng ngày càng căng thẳng, xa cách. Trên thực tế chị Đi và anh Hu đã không còn chung sống cùng nhau. Quá trình giải quyết vụ án, anh chị đều đề nghị từ chối không tham gia phiên hòa giải do Tòa án tiến hành. Như vậy, thấy rằng hôn nhân của chị Đi và anh Hu lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đi, cho chị Đi được ly hôn với anh Hu theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi con chung:

- Về người trực tiếp nuôi con chung: Chị Đi và anh Hu có một con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2020. Chị Đi có nơi ở, thu nhập ổn định đảm bảo các điều kiện để nuôi con chung. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị Đi, giao con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2020 cho chị Đi nuôi dưỡng đến khi thành niên (đủ 18 tuổi).

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng chị Đi không đưa ra yêu cầu cụ thể mà tùy thuộc vào khả năng của anh Hu và tòa án xem xét. Anh Hu đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000đồng.

Hội đồng xét xử thấy rằng mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng mà anh Hu đưa ra phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nên cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị Đi và anh Hu xác định không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về ý kiến giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000277 ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.

Bị đơn anh Nguyễn Tuấn Hu phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí nghĩa vụ cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 110,116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm đ khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi.

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Đi được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn Hu.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2020 cho chị Nguyễn Thị Đi trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 6 năm 2022 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Anh Nguyễn Tuấn Hu có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền 1.000.000đồng (một triệu đồng) /tháng. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ tháng 06 năm 2022 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Tuấn Hu có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Đồng thời anh Hu không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu anh Hu vi phạm thì chị Đi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Hu.

Các đương sự có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đi phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được trừ đi tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0000277 ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Anh Nguyễn Tuấn Hu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), nộp vào ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về