Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2022/TLST- HNGĐ ngày 11/5/2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 11/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh, sinh năm: 1998, trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam. Có mặt - Bị đơn: Ông Huỳnh Ngọc H, sinh năm: 1993, trú tại: Thôn D, xã S, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có đơn xin vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại n kh i kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên n bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh và ông Huỳnh Ngọc H tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam Sơn, huyện Núi Thành vào năm 2018. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm sống bất đồng, thường xuyên cãi vả tranh chấp, vợ chồng không còn tình cảm. Hiện nay ông H đang chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Quảng Nam. Xét thấy cuộc sống hôn nhân không đạt được mục đích, vợ chồng không thể đoàn tụ nên bà Nh làm đơn yêu cầu ly hôn ông H.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nh và ông H có một con chung tên Huỳnh Nguyễn Duy M, sinh năm: 2018. Hiện cháu M đang được bà Nh chăm sóc nuôi dưỡng. Nếu ly hôn, bà Nh yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu M, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Bà Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Huỳnh Ngọc H trình bày ý kiến tại hồ sơ như sau: Ông H và bà Nh tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam Sơn vào năm 2018, chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do không hợp nhau. Nay bà Nh làm đơn ly hôn thì ông H đồng ý.

Vợ chồng có con chung tên Huỳnh Nguyễn Duy M, sinh năm 2018; nếu ly hôn, ông H đồng ý giao con chung cho bà Nh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi, ông H không đủ điều kiện cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ: Tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh ly hôn ông Huỳnh Ngọc H. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao con chung cho bà Nh nuôi dưỡng, bà Nh không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập giải quyết; về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam tham gia tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với ông Huỳnh Ngọc H. Theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn thì ông Hiếu có đăng ký thường trú tại thôn D, xã S, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xác định đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông H là bị đơn có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh và ông Huỳnh Ngọc H tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam Sơn, huyện Núi Thành vào ngày 09/4/2018. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Nh và ông H là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà Nh khai do tính tình không hợp, quan điểm sống bất đồng, thường xuyên cãi vả tranh chấp, vợ chồng không còn tình cảm. Ông H thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn do không hợp nhau, ông H đồng ý yêu cầu ly hôn của bà Nh. Hiện nay ông H đang chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Quảng Nam, không đến Tòa để tham gia hòa giải và có đơn đề nghị giải quyết xét xử vắng mặt, nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa, bà Nh cương quyết yêu cầu ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà Nh và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh được ly hôn với ông Huỳnh Ngọc H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi dưỡng con chung:

[3.1] Về con chung: Bà Nh và ông H có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Duy M, sinh ngày 13/5/2018. Bà Nh và ông H đều có ý kiến giao con cho bà Nh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: việc nuôi con phải phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng nuôi dưỡng của các bên cũng như đảm bảo sự phát triển ổn định về thể chất và tinh thần cho đứa trẻ. Hiện nay cháu M còn nhỏ, đang ở với bà Nh; bà Nh có công việc và thu nhập ổn định; mặc khác ông H hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu M và căn cứ theo quy định của pháp luật nên xét giao con chung Huỳnh Nguyễn Duy M, sinh ngày 13/5/2018 cho bà Nh trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà Nh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Bà Nh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét

[5] Về án phí hôn nhân – đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với bị đơn ông Huỳnh Ngọc H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh được ly hôn với ông Huỳnh Ngọc H.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao con chung Huỳnh Nguyễn Duy M, sinh ngày 13/5/2018 cho bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi trưởng thành. Ông Huỳnh Ngọc H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Huỳnh Ngọc H được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông H thực hiện quyền này. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung và cho mượn nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn ồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nh đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn ồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011088 ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyên khang cao bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về