Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 22/2021/HNGĐ-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-PT NGÀY 03/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 03 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 26/2021/TLPT-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.

Do Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2021/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng có kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 283/2021/QĐ-PT ngày 11 tháng 10 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 304/2021/QĐ-PT ngày 25/10/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hứa Thị A; nơi cư trú: Thôn Đ, xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đoàn Đức B; nơi cư trú: Thôn Đ, xã TĐ, huyện VB, thành phố Hải Phòng, thành phố Hải Phòng; có mặt.

Người kháng cáo: Anh Đoàn Đức B là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là chị Hứa Thị A trình bày:

Chị và anh Đoàn Đức B kết hôn tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 04 tháng 04 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, nghi ngờ lẫn nhau trong quan hệ tình cảm. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình động viên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020, không quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đoàn Đức B.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đoàn Đức C, sinh ngày 06- 01-2008 và Đoàn Tuấn D, sinh ngày 17-11-2017. Hiện nay hai con chung đang ở với anh B. Tuy nhiên sau khi vợ chồng sống ly thân, con chung Đoàn Tuấn D ở với chị sau đó anh B đến đón về và từ đó chị không được gặp con. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đoàn Tuấn D, giao con chung Đoàn Đức C cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chị yêu cầu tự giải quyết với anh B.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Anh Đoàn Đức B xác nhận về thời gian, hoàn cảnh và điều kiện kết hôn như chị A trình bày là đúng. Quá trình chung sống, vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn gì nhưng anh không hiểu vì lý do gì chị A lại bỏ về gia đình nhà ngoại sống. Anh đã đến tìm nhiều lần nhưng chị A không về. Vợ chồng đã sống ly thân. Nay chị A xin ly hôn, anh yêu cầu giải quyết theo ý kiến của chị A.

Về con chung: Anh xác nhận như chị A trình bày là đúng. Hiện nay cả hai con chung đang ở với anh. Trường hợp ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh yêu cầu giải quyết theo ý kiến của chị A.

Tại bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2021/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đã quyết định:

1. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Hứa Thị A được ly hôn anh Đoàn Đức B.

2. Về con chung: Giao con chung Đoàn Tuấn D, sinh ngày 17-11-2017 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Đoàn Đức C, sinh ngày 06-01- 2008 cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh chị tự giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không xét giải quyết.

Ngoài ra, bản án có tuyên quyền kháng cáo và án phí đối với các đương sự.

Ngày 17 tháng 6 năm 2021, anh Đoàn Đức B kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giao hai con là Đoàn Đức C sinh ngày 06/01/2008 và Đoàn Tuấn D sinh ngày 17/11/2017 cho anh B trực tiếp nuôi vì anh B có công việc, thu nhập, chỗ ở ổn định. Chị A hiện có tình cảm sai trái bên ngoài, không quan tâm chăm sóc các con, chị A không có công việc ổn định cũng như thu nhập hàng tháng và không có chỗ ở ổn định.

Ngày 29/7/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của anh Đoàn Đức B tại Quyết định số 02/2021/QĐ-PT.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về nội dung kháng cáo: Việc giao con cho ai nuôi, cần xem xét đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Về điều kiện nuôi con thì chị A và anh B đều có việc làm và thu nhập. Anh chị có hai con chung, tòa án sơ thẩm giao con lớn cho anh B và giao con bé cho chị A là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của anh chị. Mặt khác, cháu Khoa còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy việc giao cháu Khoa cho chị A nuôi và giao cháu Tuấn cho anh B nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ những phân tích trên thấy kháng cáo của anh B không có căn cứ. Không chấp nhận kháng cáo của anh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về sự vắng mặt lần thứ hai của chị Hứa Thị A nhưng đã được tòa án tống đạt hợp lệ. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị A.

- Xét kháng cáo của anh Đoàn Đức B:

[2] Vợ chồng có hai con chung là Đoàn Đức C, sinh ngày 06/01/2008 và Đoàn Tuấn D, sinh ngày 17/11/2017. Chị A yêu cầu giao cháu Đoàn Tuấn D cho chị là người trực tiếp nuôi, giao cháu Đoàn Đức C cho anh B là người trực tiếp nuôi. Anh B yêu cầu được nuôi hai con chung vì cho rằng anh có công việc, thu nhập, chỗ ở ổn định. Theo lời khai của anh B, anh B làm nghề sửa chữa ô tô với mức lương thu nhập khoảng 13.500.000đ/tháng. Chị A khai, chị làm nghề tự do thu nhập khoảng 6.000.000đ/tháng. Như vậy, anh B và chị A đều có điều kiện để nuôi con. Anh B kháng cáo cho rằng chị A không có việc làm, không có chỗ ở, thu nhập không ổn định nhưng hiện tại chị A làm việc gì, ở đâu thì anh B không biết nên không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo của Nhuận về việc chị A không có điều kiện để nuôi con. Mặt khác, chị A khai từ khi vợ chồng ly thân, con chung Đoàn Tuấn D ở cùng chị, sau đó gia đình anh B đến đón về từ đó đến nay chị không được gặp con. Xét thấy cháu Đoàn Tuấn D chưa đủ 07 tuổi, cháu còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, hơn nữa cháu Đoàn Đức C có nguyện vọng được ở với bố và nguyện vọng của cháu là tự nguyện không bị ép buộc nên tòa án cấp sơ thẩm giao con chung Đoàn Tuấn D cho chị A là người trực tiếp nuôi và giao cho con chung Đoàn Đức C cho anh B là người trực tiếp nuôi là có căn cứ và phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Từ những nhận định như trên, giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2021/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, không chấp nhận kháng cáo của anh Đoàn Đức B.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 296, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 55, Điều 56, các điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27, khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Đoàn Đức B.

2. Giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2021/HNGĐ- ST ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

Về quan hệ vợ chồng: Chị Hứa Thị A được ly hôn anh Đoàn Đức B.

Về con chung: Giao con chung Đoàn Tuấn D, sinh ngày 17/11/2017 cho chị Hứa Thị A là người trực tiếp nuôi; giao con chung Đoàn Đức C, sinh ngày 06/01/2008 cho anh Đoàn Đức B là người trực tiếp nuôi đến khi hai con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự, tạm thời không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị A và anh B không yêu cầu nên Toà án không xét.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Hứa Thị A phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017477 ngày 27 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo.

4.Về án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm: Anh Đoàn Đức B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng ) án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017690 ngày 16 tháng 9 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 22/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về