Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Ánh B, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp E, xã H, huyện A, tỉnh Bạc Liêu (có đơn xin vắng mặt ngày 21/01/2022).

- Bị đơn: Anh Dư Chí C, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21/9/2021, đơn xin rút lại một phần đơn khởi kiện ngày 29/10/2021, đơn xin rút một phần đơn khởi kiện ngày 21/01/2022; biên bản lấy lời khai ngày 29/10/2021 và ngày 21/01/2022 nguyên đơn, chị Đặng Ánh B trình bày: Chị và anh Dư Chí C xây dựng hôn nhân năm 2009, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 65, ngày 05/12/2019, vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011, hiện nay cháu đang sống chung với anh Dư Chí C và ông bà nội tại ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Cháu D bị bệnh não từ khi sinh ra đến nay, cháu được nhận trợ cấp hàng tháng; tài sản chung, tài sản riêng không có. Nguyên nhân ly hôn là do chị và anh C có những bất đồng, mâu thuẫn về kinh tế, tình cảm từ năm 2013, cuộc sống vợ chồng thường xuyên cự cãi, cuộc sống chung không có hạnh phúc, vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm.

Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Dư Chí C, không yêu cầu đoàn tụ; Chị đồng ý giao cháu Dư Đặng Chí D cho anh C tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị yêu cầu được thăm nom cháu D, anh C không được cản trở việc chị thăm con; tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét.

Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu đã nhiều lần trực tiếp đến nhà anh Dư Chí C để tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh C không có nhà hoặc có nhà nhưng không đồng ý nhận văn bản tố tụng của Tòa án và không đến Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu theo giấy mời nên không ghi nhận được ý kiến của anh C đối với yêu cầu khởi kiện của chị B.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến giải quyết vụ án về nội dung như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào Điều 21, Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 220, khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Ánh B đối với anh Dư Chí C. Giao con chung là cháu Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011 cho anh C trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị B không phải cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung không có nên đề nghị không xem xét. Chị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Chị Đặng Ánh B yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn với anh Dư Chí C, hiện nay anh C đang cư trú tại ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu nên Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Chị Đặng Ánh B có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Dư Chí C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị Đặng Ánh B và anh Dư Chí C theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Ánh B và anh Dư Chí C chung sống với nhau từ năm 2009. Đến năm 2019, đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn số 65, ngày 05/12/2019. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh C là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.”

[5] Theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của Trưởng ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu cho biết chị B và anh C chung sống được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn, chị B đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống gần 10 năm nay. Theo chị B xác định vợ chồng chị xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay, không có biện pháp gì để hàn gắn. Từ đó, có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa chị B và anh C đã trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị B đối với anh C.

[6] Về con chung: Chị Đặng Ánh B xác định chị và anh Dư Chí C có 01 (một) con chung tên Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011 (giới tính: Nam), hiện nay cháu đang sống chung với anh Dư Chí C và ông bà nội tại ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Tại đơn khởi kiện ngày 21/9/2021, chị yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nhưng tại đơn xin rút lại một phần đơn khởi kiện ngày 29/10/2021, đơn xin rút một phần đơn khởi kiện ngày 21/01/2022, chị B đồng ý giao cháu D cho anh C trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “…nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Tòa án đã đến nhà anh C để ghi nhận ý kiến của cháu D về nguyện vọng của cháu được sống chung với ai khi cha mẹ cháu ly hôn nhưng do cháu D bị bệnh não từ khi sinh ra đến nay, cháu không có khả năng nhận thức, không thể trả lời các câu hỏi của Thẩm phán cũng như không thể trình bày được nguyện vọng của cháu. Theo trưởng ấp B1, xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu xác định cháu D bị khuyết tật nặng, nhận trợ cấp hàng tháng, cháu không có khả năng nhận thức, người khác hỏi gì cháu đều không trả lời được. Mặc khác, Tòa án đã thu thập danh sách hưởng trợ cấp hàng tháng của phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện A, tỉnh Bạc Liêu thì tại xã I, huyện A, tỉnh Bạc Liêu có danh sách cháu Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011. Hội đồng xét xử xét thấy, chị B đồng ý giao cháu D cho anh C nuôi dưỡng khi chị và anh C ly hôn, mặc khác, cháu D đang sống ổn định với anh C, có sự hỗ trợ chăm sóc từ cô ruột và ông bà nội. Do đó, nhằm bảo đảm quyền lợi về mọi mặt và tránh sự xáo trộn về tâm lý của cháu D, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu D cho anh C tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên,…”. Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả chị B và anh C. Tuy nhiên, do anh C không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp anh C có yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết ở một vụ kiện khác. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, chị B không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[8] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đặng Ánh B xác định chị và anh Dư Chí C không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa chị B và anh C trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[9] Về án phí dân sự không có giá ngạch: Chị Đặng Ánh B chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung.

[10] Các quan điểm đề xuất việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa, như đã phân tích, là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Ánh B đối với anh Dư Chí C. Xử cho chị Đặng Ánh B ly hôn với anh Dư Chí C.

2. Về con chung: Giao cháu Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011 (Giới tính: Nam) cho anh Dư Chí C tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (Cháu D đang sống chung với anh C).

Anh Dư Chí C không yêu cầu chị Đặng Ánh B cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.

Chị Đặng Ánh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Ánh B đối với anh Dư Chí C về yêu cầu nuôi con chung là cháu Dư Đặng Chí D, sinh ngày 27/11/2011 và cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Án phí Hôn nhân và Gia đình: Chị Đặng Ánh B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị Đặng Ánh B đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000651 ngày 11 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A nên được chuyển thu án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về