Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18/4/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2022/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Vũ Thị Thúy C, sinh năm 1992 Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã S, huyện X, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: tổ *, phường H, TP T, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: anh Lưu Văn T, sinh năm 1985 Địa chỉ: thôn T, xã S, huyện X, tỉnh Thái Bình.

( chị C và anh T đều có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị Thúy C trình bày: chị và anh Lưu Văn T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V ( nay là xã S), huyện Kiến Xương vào ngày 12/01/2012. Quá trình chung sống đến năm 2014 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị phải ở nhà trông con, không làm ra kinh tế nên anh T gây sự, chửi mắng, đánh đập chị. Chị về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 3/2021 đến nay, hai bên không còn quan tâm, liên lạc với nhau. Chị thấy cuộc sống không có hạnh phúc, không trở về đoàn tụ được nên vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn anh T.

Về con chung: chị và anh T có hai con chung là Lưu Minh H, sinh ngày 02/10/2012 và Lưu Thành Ph, sinh ngày 13/11/2017. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Phát vì cháu còn nhỏ, anh T sẽ nuôi dưỡng con H, chị không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con; từ khi sống ly thân, chị không dám về nhà mà chỉ đến trường thăm con lớn và nhờ mẹ chị đến thăm con nhỏ. Hiện chị làm công nhân tại công ty cổ phần đầu tư thương mại quốc tế M, địa chỉ tổ 10, phường H, TP Thái Bình thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/ tháng Về tài sản và nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Lưu Văn T trình bày: năm 2014 anh và chị C phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chị C thường tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở trong khi các con còn nhỏ dại, những lần này anh đã tìm gọi chị C về chung sống, từ khoảng tháng 3/2021 chị C tiếp tục về nhà bố mẹ đẻ, anh không tìm gọi cũng không liên lạc nữa. Anh không còn T cảm với chị C nên cũng nhất trí ly hôn.

Về con chung: anh và chị C có hai con chung như chị C trình bày, ly hôn anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con, không yêu cầu chị C góp tiền cấp dưỡng vì chị C không có trách nhiệm với các con, từ khi chị C bỏ đi không về thăm còn lần nào, mẹ chị C thỉnh thoảng xuống thăm các cháu. Hàng ngày cháu H tự đi học anh chỉ đưa đón khi trời mưa; mẹ anh bị tai nạn gãy chân không đi làm nên hiện cháu Phát do mẹ anh trông nom giúp. Anh làm lao động tự do thu nhập từ khoảng 300.000 đồng- 1.000.000 đồng/ ngày.

Cháu Lưu Minh H có nguyện vọng được ở với anh T và cho biết từ khi chị C bỏ đi có về trường thăm cháu 2-3 lần.

Về tài sản và nợ chung: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại UBND xã S, huyện Kiến Xương thể hiện: quá trình chung sống anh T và chị C không phát sinh mâu thuẫn gì lớn mà chính quyền và cơ sở thôn phải can thiệp. Khi biết việc chị C về quê, cơ sở thôn có động viên anh T tìm gọi chị C nH anh cho rằng chị C tự đi thì tự về anh không tìm. Bố anh T đã mất, mẹ anh T bị tai nạn giao thông, sức khỏe yếu. Đề nghị Tòa án hòa giải, động viên để anh, chị về đoàn tụ nếu chị C cương quyết xin ly hôn thì giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Cô Ngô Thị Kim Th là giáo viên chủ nhiệm cháu Lưu Minh H cung cấp: cháu H chăm chỉ, ngoan, học lực khá, sức khỏe tốt, anh T quan tâm đến việc học của cháu, đóng góp các khoản cho nhà trường đầy đủ, kịp thời.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70,71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử cho chị C được ly hôn anh T. Về con chung giao cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng con Lưu Thành Ph, giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng con Lưu Minh H. Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự về việc không yêu cầu góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: các đương sư đều không yêu cầu giải quyết.

Về án phí chị Vũ Thị Thúy C phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Vũ Thị Thúy C khởi kiện xin ly hôn anh Lưu Văn T có nơi cư trú xã Tây Sơn, huyện Kiến Xương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: chị C và anh T tự nguyện kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã V ( nay là xã S) huyện Kiến Xương, là quan hệ hôn nhân hợp pháp, năm 2014 anh, chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính T không hợp, đã nhiều lần chị C về nhà bố mẹ đẻ ở. Từ tháng 3/2021 anh chị sống ly thân, không liên lạc, không quan tâm đến nhau, cả hai đều xác định không còn T cảm, không trở về đoàn tụ được chứng tỏ mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị C, quan điểm của Kiểm sát viên, xử cho chị được ly hôn anh T là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung vì cho rằng chị C không có trách nhiệm với con, tuy nhiên do đang mẫu thuẫn nên chị C không về nhà mà chỉ vào trường thăm con, điều đó cho thấy chị cũng có trách nhiệm với con. Về điều kiện chăm sóc và mức thu nhập của hai bên là ngang nhau, con Minh H đang học tập ổn định và có nguyện vọng ở với anh T, con Thành Phát còn nhỏ cần sự chăm sóc của chị C. Do vậy để đảm bảo quyền được nuôi con của mỗi bên cũng như việc nuôi dưỡng con chung được tốt nhất, cần giao cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng con Lưu Thành Ph, giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng con Lưu Minh H là đúng với quy định tại các điều 80,81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của chị C và anh T về việc không yêu cầu góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản và nợ chung: chị C và anh T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: chị Vũ Thị Thúy C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 147, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1.Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Vũ Thị Thúy C được ly hôn anh Lưu Văn T.

2.Về con chung: giao cho chị Vũ Thị Thúy C trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lưu Thành Ph, sinh ngày 13/11/2017. Giao cho anh Lưu Văn T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lưu Minh H, sinh ngày 02/10/2012. Ghi nhận sự tự nguyện của chị C và anh T về việc không yêu cầu góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị C và anh T có quyền thăm nom con chung, quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và mức cấp dưỡng khi cần thiết.

3.Về tài sản và nợ chung: các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về án phí: chị Vũ Thị Thúy C phải chịu 300.000 ( Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 ( Ba trăm nghìn) đồng chị C đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001535 ngày 06/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương thành án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 18/4/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về