TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 111/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2022/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2022 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 92/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lưu Thị T, sinh năm 1983.
Nơi ĐKHKTT: Số 389 N 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
Địa chỉ cư trú: Số 10/7 Khu G, kho 30B, đường N, quận K, thành phố Hải Phòng (Vắng mặt, có đơn đề nghị xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1983.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 389 N 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú hiện nay: Trung Quốc (Vắng mặt).
3. Người làm chứng: Ông Trần Hải V, sinh năm 1950, địa chỉ: Số 417 N 2, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lưu Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn S, huyện C (nay là phường S, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 30/5/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T ở N 2, S, C, tỉnh Hải Dương và không có mâu thuẫn gì. Tuy nhiên do kinh tế khó khăn nên anh T đi lao động tại Trung Quốc. Sau đó vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hòa giải, vợ chồng thường hay cãi nhau. Chị T và anh T ly thân từ hơn 07 năm nay và không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì. Chị T đã đưa con về nhà mẹ đẻ sinh sống ở tại số 10/7 Khu G, kho 30B, đường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Anh T ở Trung Quốc hai năm mới về nhà một lần và cũng không quan tâm gì đến chị T. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, chung sống không có hạnh phúc, không thể hòa giải mâu thuẫn nên đề nghị tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T để chị có thể ổn định được cuộc sống mới.
Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung là Trần Anh Đ, sinh ngày 19/11/2008 hiện đang ở cùng với chị T, do chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu Đ có nguyện vọng ở với mẹ. Bản thân chị T cũng có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con vì cháu đang có cuộc sống ổn định nên không muốn làm cháu bị xáo trộn cuộc sống và do anh T hiện không ở Việt Nam. Chị T tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung: Chị T xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại các biên bản lấy lời khai, bố đẻ của anh Trần Văn T là ông Trần Hải V trình bày: Ông V là bố đẻ của anh Trần Văn T, chị T là vợ anh T và là con dâu của ông. Anh T và chị T kết hôn tự nguyện và có đăng ký tại UBND thị trấn S, huyện C (nay là phường S, thành phố C), tỉnh Hải Dương. Anh T và chị T có mâu thuẫn, vợ chồng ly thân đã lâu. Hiện anh T đang đi lao động tại Trung Quốc. Do anh T không nói địa chỉ cụ thể nên ông không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh T tại Trung Quốc cho Tòa án được. Gia đình vẫn thường xuyên liên lạc với anh T nên ông V nhận các văn bản tố tụng của Tòa án để thông báo cho anh T biết việc chị T đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đồng thời thông báo nội dung các văn bản tố tụng của tòa án cho anh T biết. Qua trao đổi thì ông được anh T cho biết anh T có quan điểm rằng vợ chồng có mâu thuẫn, ly thân đã lâu, nay chị T xin ly hôn thì anh T đề nghị tòa án giải quyết theo pháp luật. Anh T xác định vợ chồng có 01 con chung như chị T trình bày là đúng. Hiện cháu đang ở ổn định cùng chị T và cháu có nguyện vọng được ở cùng mẹ. Do anh T hiện không có mặt ở Việt Nam, chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con và chị T tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con thì anh T đồng ý. Về tài sản chung anh T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc thường xuyên thay đổi địa chỉ nên anh T không thể cung cấp địa chỉ cụ thể, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh T và tống đạt các văn bản thông qua bố đẻ anh là ông V. Ông V đồng ý nhận thay để thông báo cho anh T. Ngoài ra ông V không trình bày hay có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt.
Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đến nay tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56,81,82,83 Luật HN&GĐ năm 2014, Điều 147 BLTTDS năm 2015, Nghị quyết 326 quy định về án phí, lệ phí Tòa án chấp nhận xử cho chị Lưu Thị T được ly hôn anh Trần Văn T. Giao cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Anh Đ, sinh ngày 19/11/2008. Anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Chị Lưu Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trần Văn T là người Việt Nam hiện đang lao động tại Trung Quốc, có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, anh T xuất cảnh vào ngày 30/7/2019. Từ đó đến nay anh T chưa nhập cảnh lần nào.
Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn: Chị T chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh T ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của anh T tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu bố đẻ anh T là ông Trần Hải V cung cấp địa chỉ của anh T đến lần thứ hai nhưng ông V cũng không biết địa chỉ của anh T tại Trung Quốc. Tuy nhiên ông V vẫn liên lạc được với anh T nên đã nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho anh T. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.
Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa chị T vắng mặt, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh T vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo qua thân nhân và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị T và anh T là phù hợp.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn S, huyện C (nay là phường S, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 30/5/2008 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Do kinh tế khó khăn nên anh T đi lao động tại Trung Quốc. Sau đó vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hòa giải, vợ chồng thường hay cãi nhau. Chị T và anh T ly thân từ hơn 07 năm nay và không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì. Chị T đã đưa con về nhà mẹ đẻ sinh sống ở tại số 10/7 Khu G, kho 30B, đường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Anh T ở Trung Quốc hai năm mới về nhà một lần.
Xét thấy hôn nhân của chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Thông qua ông V thì anh T cũng xác định vợ chồng có mâu thuẫn, ly thân đã lâu, đề nghị tòa án giải quyết theo pháp luật nên cần chấp nhận cho chị T ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ con chung: Anh chị có 01 con chung là Trần Anh Đ, sinh ngày 19/11/2008, hiện đang ở cùng với chị T, do chị chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu Đ có nguyện vọng ở với mẹ. Anh T hiện không có mặt ở Việt Nam. Chị T và anh T đều đề nghị tòa án giải quyết cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị T tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, anh T đồng ý.
Xét thấy quan điểm của anh chị có sự thống nhất và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên cần chấp nhận cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành và chấp nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị T và anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.
[5] Về án phí: Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273, khoản 2 Điều 479 BLTTDS.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 474, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lưu Thị T được ly hôn anh Trần Văn T.
2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Lưu Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Anh Đ, sinh ngày 19/11/2008 đến khi trưởng thành. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.
Anh Trần Văn T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lưu Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí do chị T đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000018 ngày 31/3/2022. Chị T đã nộp xong.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Lưu Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Trần Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 111/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 111/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về